Mới cập nhật

Hành trình vươn đến mục tiêu “quốc gia khởi nghiệp” của Việt Nam

Hành trình vươn đến quốc gia khởi nghiệp của Việt Nam đang cần không chỉ những người làm kinh doanh, mà cả xã hội có tinh thần khởi nghiệp. Đó là nhận định của Ông Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) – về mục tiêu “quốc gia khởi nghiệp” của Việt Nam.

%post_name% - %random%
 
Tinh thần khởi nghiệp truyền cảm hứng

Trong buổi làm việc với giới startup trẻ vào tuần trước, ông Vũ Tiến Lộc đã chia sẻ rất lâu, hàm ý là các doanh nhân với tinh thần khởi nghiệp chính là niềm hy vọng, niềm tin của sự phát triển kinh tế tại Việt Nam. Nhưng, cũng còn đâu đó những phân vân về sự phân loại khởi nghiệp kinh doanh theo cách thông thường và khởi nghiệp sáng tạo – startup.

* Theo ông, đâu là con đường khởi nghiệp mà nền kinh tế Việt Nam cần hướng tới trong hành trình trở thành quốc gia khởi nghiệp?

Tôi muốn kể lại câu chuyện tròn 20 năm trước. Khi đó, VCCI cùng với Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã mở màn Chương trình Khởi sự doanh nghiệp và Tăng cường khả năng kinh doanh (SIYB). Mục tiêu là hỗ trợ các nhà quản lý và chủ doanh nghiệp nhỏ nắm vững các vấn đề cốt lõi để khởi sự và điều hành công việc kinh doanh. Cũng từ chương trình này, những thuật ngữ về khởi sự kinh doanh, vườn ươm doanh nghiệp v.v. đã có mặt trong nền kinh tế Việt Nam.

Tôi tin là sự nở rộ của hàng loạt doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trong những năm sau đó phần lớn đến từ sự hậu thuẫn của Luật Doanh nghiệp, cũng như sự góp sức của các khóa đào tạo làm kinh doanh từ SIYB và các cuốn sách đầu tiên về khởi nghiệp kinh doanh.
Đến giờ, các khóa học vẫn được tiếp diễn. Người tham gia là những cá nhân ít có cơ hội tiếp cận với kiến thức về kinh doanh trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hay những mô hình kinh doanh mới. Người tham gia khóa học cũng có thể là những cá nhân đang làm chủ tại các cơ sở sản xuất nhỏ ở nông thôn v.v..

Dẫu vậy, không thể phủ nhận việc các phương án khởi nghiệp kinh doanh truyền thống không giúp tạo nên những giá trị của một quốc gia khởi nghiệp. Đặc biệt, khi mà những cá nhân sử dụng các phương án khởi nghiệp kinh doanh truyền thống đã biết tận dụng rất tốt nền tảng công nghệ và Internet để góp mặt vào nền kinh tế.

Thậm chí, trên bàn nghị sự về những vấn đề kinh doanh trong khu vực và trên thế giới, vai trò của các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ đang ngày một trở nên đậm đà và có ý nghĩa hơn, khi mà mục tiêu của hội nhập kinh tế và của toàn cầu hóa là không để ai bị tụt lại phía sau. 

Tất nhiên, trong dòng chảy của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và với sự phát triển dường như không có giới hạn của công nghệ, thì sức sáng tạo của người làm kinh doanh cũng trở nên phi giới hạn. Các ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo, các dự án startup trong giới kinh doanh Việt Nam đang đưa Việt Nam vào dòng chảy chung của thế giới.

Điều quan trọng hơn là tôi đang cảm thấy tinh thần kinh doanh của những người trẻ, của giới startup đang giúp truyền cảm hứng mạnh mẽ cho cộng đồng và xã hội. Đây mới là điều mà nền kinh tế Việt Nam đang cần.

* Và đây là lý do ông vẫn hay nhắc tới mục tiêu 1 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm 2020?

Mọi con số đều có lý do của nó. Với nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, hội nhập mạnh mẽ cũng như sở hữu cơ hội kinh doanh rộng mở, thì không thể không nhắc tới hàng triệu doanh nghiệp và con số không dừng ở 1 triệu. 

Cũng có quan điểm cho rằng, doanh nghiệp bao nhiêu là đủ là do thị trường, do cơ hội kinh doanh quyết định. Nhưng đó mới là một vế. Một cộng đồng doanh nghiệp đông đảo hay không, có năng lực cạnh tranh hay không, phụ thuộc rất lớn vào hệ thống chính sách, môi trường kinh doanh và điều kiện kinh tế.

Ở Việt Nam hiện tại, các mục tiêu thành lập doanh nghiệp vẫn rất cần được đưa ra, như một sức ép, đòi hỏi của giới kinh doanh với Chính phủ trong nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh. Một phần để những người kinh doanh sẵn sàng bước vào thị trường. Một phần thúc đẩy những hộ kinh doanh lớn lên, trở thành doanh nghiệp. 

Nền kinh tế Việt Nam không thể hội nhập bằng hàng triệu hộ kinh doanh cá thể, mà cần những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, có thể tham gia các chuỗi giá trị. Nền kinh tế Việt Nam cũng cần nhiều hơn nữa những doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, đi cùng với xu hướng của thế giới.   

Hệ sinh thái khởi nghiệp đòi hỏi những thay đổi nền tảng

* Nhưng vẫn có doanh nghiệp sáng tạo tìm kiếm cơ hội ở nước ngoài, thưa ông?

Tôi muốn nhắc đến một nghiên cứu mới đây của Mạng lưới Khởi nghiệp toàn cầu khi khảo sát 60 nền kinh tế. Việt Nam nằm ở top đầu 20 quốc gia về tinh thần khởi nghiệp. Cũng ở cuộc khảo sát này, khả năng thực hiện ý tưởng của người Việt lại nằm trong nhóm 20 nền kinh tế đứng cuối.
Chúng ta làm sao sản sinh ra Grab hay Uber “made in Việt Nam” nếu doanh nghiệp vận tải chỉ được hoạt động trong 5 phương thức, chỉ có thể đăng ký đi theo những con đường, lộ trình với số lượng đầu xe cố định và các phương án kinh doanh được duyệt.
Chúng ta cũng không thể có một giới khởi nghiệp sáng tạo nếu buộc người kinh doanh phải chọn một mã ngành nào đó để đăng ký thành lập…

%post_name% - %random%
Ông Vũ Tiến Lộc phát biểu với cộng đồng khởi nghiệp khu vực châu Á- Thái Bình Dương tại Diễn đàn Khởi nghiệp APEC 2017.

Chúng ta cũng không thể có những người sẵn sàng chấp nhận thất bại, chấp nhận phá sản những ý tưởng không hiện thực để tìm đường đi mới khi các quy định về phá sản quá khó khăn, đòi hỏi những giải trình mệt mỏi… thậm chí là bị hình sự hóa.

* Ông đã từng nói, nếu như những người hoạch định chính sách được đào tạo về kinh doanh, có kiến thức thực tiễn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, có lẽ sẽ không có những quy định theo kiểu can thiệp thô bạo như vậy?

Tôi vẫn giữ quan điểm này. Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với sự xuất hiện không thể đoán trước của những mô hình, phương thức kinh doanh mới, có lẽ những nhà hoạch định chính sách và cả những công chức thực thi phải có cả tinh thần khởi nghiệp.
Ở đây, tinh thần khởi nghiệp có nghĩa là chấp nhận sự sáng tạo, chấp nhận rủi ro và chấp nhận sự thất bại…

* Rất khó yêu cầu các công chức chấp nhận sự thất bại trong chính sách?
Điều này không phải hàm nghĩa là chấp nhận sự thất bại trong đề xuất và xây dựng chính sách mà là nhìn nhận thực tế kinh doanh với thái độ của người khởi nghiệp, để sẵn sàng thay đổi cách làm cũ…

Trong những ngày vừa rồi, doanh nghiệp kinh doanh vận tải cảm thấy phấn khích vì những quy định can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được Bộ Giao thông – Vận tải, Bộ Y tế… đề xuất bãi bỏ. 

Mặc dù cần thời gian để Chính phủ xem xét, hoàn tất các thủ tục để các đề xuất này trở thành chính sách, nhưng rõ ràng, có sự chuyển động trong tư duy quản lý nhà nước khi nhìn nhận các điều kiện kinh doanh. 

Chỉ khoảng 2 năm trước, khi VCCI đưa ra khảo sát về điều kiện kiện kinh doanh với những nhận định về sự can thiệp của cách thức quản lý nhà nước trong nhiều ngành, lĩnh vực, nhiều cơ quan tỏ thái độ không ủng hộ. Khi đó, quan niệm nhà nước phải quản lý chặt bằng điều kiện kinh doanh gần như chi phối các phương thức quản lý nhà nước. Cũng với tư duy này, dịch vụ công mà nhà nước trực tiếp thực hiện cũng được coi là tất yếu.

Nhưng hiện tại, tư duy của các công chức đã thay đổi theo hướng thực tiễn hơn và quan trọng là thấm tinh thần khởi nghiệp hơn. 

* Hệ sinh thái đó sẽ tạo nên sự thay đổi trong hoạt động khởi nghiệp, thưa ông?

Một quốc gia khởi nghiệp cần một hệ sinh thái được xây dựng trên tinh thần khởi nghiệp. Tôi tin là khi từng công chức nhìn nhận các ý tưởng kinh doanh với trách nhiệm nâng đỡ, hỗ trợ và thúc đẩy sự sáng tạo, hành vi ứng xử của họ sẽ khác. 

Khi đó, môi trường kinh doanh sẽ không còn sự can thiệp một cách hành chính vào thị trường, chi phí giảm, rủi ro giảm, người kinh doanh sẽ tiên liệu được con đường kinh doanh, dám sáng tạo để tận dụng cơ hội kinh doanh mới. 
Nhưng, vẫn cần sự thay đổi mạnh mẽ hơn trong cơ quan quản lý nhà nước, cần coi khởi nghiệp không phải là lãnh địa riêng của người kinh doanh mà của cả Chính phủ. Khi đó, nền kinh tế Việt Nam chúng ta mới thực sự có hệ sinh thái thuận cho khởi nghiệp.

Theo Báo đầu tư