NHỮNG NGHIÊN CỨU MỚI VỀ CON NGƯỜI (Bài 3): CON NGƯỜI TRONG XÃ HỘI THỊ TỘC
PGS,TS sử học, Cử nhân Ngữ văn Đàm Đức Vượng, Viện trưởng Viện Khoa học Nghiên cứu Nhân tài Nhân lực (!SSTH)
Người ta nghiên cứu nhiều về xã hội nguyên thủy nói chung, nhưng nghiên cứu về xã hội thị tộc thì còn ít.
Xã hội nguyên
thủy kéo dài hàng vạn năm, chia làm ba giai đoạn: giai đoạn đầu; giai đoạn
giữa; giai đoạn cuối. Giai đoạn đầu tương ứng với thời kỳ đồ đá cũ; giai đoạn
hai tương ứng với thời kỳ đồ đá giữa; giai đoạn 3 tương ứng với thời kỳ đồ đá
mới.
Thị tộc là
một tổ chức xã hội trong giai đoạn giữa – cuối của xã hội nguyên thủy, gồm
những người cùng chung một dòng máu, do một tộc trưởng đứng đầu. Xã hội thị tộc
là một xã hội bắt đầu có tổ chức. Thị tộc hoặc dòng họ, do đó, gọi là xã hội
thị tộc, là một tập thể cùng một huyết thống. Hình thức sớm nhất của thị tộc
bắt nguồn từ huyết tộc mẹ (gọi là thị tộc mẫu hệ). Thị tộc cũng là một cộng
đồng sản xuất và tiêu dùng, nó truyền lại cho các thế hệ sau những kinh nghiệm
và hiểu biết về lao động sản xuất và quan hệ trong thị tộc.
Xã hội thị tộc
xuất hiện trong thời kỳ đồ đá mới, cách đây khoảng 40 nghìn năm, đó là giai
đoạn thứ ba của xã hội nguyên thủy1. Như
vậy, xã hội thị tộc vẫn nằm trong xã hội nguyên thủy ở thời kỳ đồ đá mới. Xã
hội thị tộc hình thành với sự xuất hiện giống người Nêantơrôpin. Các nhà khảo cổ
học nghiên cứu thấy các hóa thạch có hình thức giống với người Hômô Sapiêng.
Mặc dù đến nay vẫn chưa có sự khảo cứu đầy đủ về sự phát triển của các công cụ
kỹ thuật của giống người thời đó sống ở châu Phi và Đông – Nam Á, nhưng qua
những kết quả nghiên cứu, người ta cũng có thể nhận xét rằng, vào khoảng cuối
thời kỳ đồ đá giữa và đồ đá cuối, con người trong xã hội thị tộc đã biết sử
dụng nhiều loại công cụ khác nhau và biết chế biến nhiều loại nhiên liệu hữu cơ
như xương, sừng súc vật và đồ gỗ. “Nhiều công cụ lao động khá phong phú và phần
nào có tính chất chuyên dùng, chứng tỏ rằng, quá trình lao động đã phát triển
và mở rộng hơn. Đặc biệt, tỷ lệ lao động vật hóa tăng lên đáng kể. Việc sản
xuất các công cụ được mở rộng là do năng suất lao động tìm kiếm thức ăn đã được
tăng lên. Ngược lại, lượng sản phẩm săn bắt được tùy thuộc vào trình độ hoàn
thiện và chế tạo số lượng các công cụ đi săn. Tác động qua lại giữa việc sản
xuất các công cụ được mở rộng với tỷ lệ lao động vật hóa ngày càng cao trong
quá trình lao động và năng suất lao động cao hơn có tác dụng thúc đẩy nhịp độ
phát triển của xã hội nhanh hơn so với thời kỳ đồ đá giữa”2.
Trong xã
hội thị tộc, hình thức kiếm thức ăn vẫn là săn bắt, hái lượm và bao gồm cả việc
đánh bắt cá. Có ý kiến cho rằng, giai đoạn đầu của xã hội nguyên thủy, con
người chỉ biết săn thú, nhưng khi chuyển sang xã hội thị tộc (giai đoạn giữa và
gần cuối của xã hội nguyên thủy), con người ngoài việc săn thú, còn bắt đầu
biết đánh bắt cá. Đây cũng là bước tiến của con người trong ý thức lao động.
Tuy nhiên,
con người trong xã hội thị tộc vẫn phụ thuộc vào tự nhiên để kiếm thức ăn, nên
cũng không thể cư trú được lâu dài trên mảnh đất của mình, cũng như ngày nay,
con người đã tiến đến trình độ văn minh cao, vẫn phải phụ thuộc vào tự nhiên.
Người ta chỉ có thể làm chủ được xã hội nếu có điều kiện chính trị cho phép,
chứ không làm chủ được tự nhiên, nhưng cũng có thể lợi dụng và hạn chế được tự
nhiên.
Quan hệ
sản xuất của xã hội thị tộc còn hạn chế, tuy cũng đã có sự thay đổi ít nhiều.
Sở hữu về kết quả lao động và tư liệu sản xuất, phần kiếm được khi săn bắn vẫn
là sở hữu chung của xã hội thị tộc.
Sự phát
triển của xã hội thị tộc trong giai đoạn đàu của thời kỳ đồ đá mới, con người
đã cư trú ra nhiều nơi trên trái đất, hình thành nên nhiều giống người. “Giống
người Habilin sống ở hầu khắp phía Đông châu Phi (từ Kênia đến Êtiôpia), trong
khi đó, giống người Áckhantơrôpiu có ở hầu khắp châu Phi, một phần châu Âu, Tây
Á, Đông Á, Nam Á. Giống người Palêantơrôpin cư trú nhiều nơi ở châu Âu và châu
Á. Người Nêantơrôpin có mặt ở châu Mỹ và châu Úc. Việc phân bổ con người trải
rộng khắp mặt đất như thế dẫn đến sự hình thành các chủng loại người (người
châu Âu, người da đen, người Mông Cổ – thuật ngữ gọi là người Ôirôpít, người
Nêgơrít và người Mônggôlít)”3 Như
vậy, xã hội thị tộc đã hình thành nên người ở cả 5 châu, bốn biển. Có điều là,
cho đến nay, người ta vẫn chưa lý giải được người da đen xuất hiện trước, hay
người da trắng, da nâu, da vàng, da đỏ xuất hiện trước, hay xuất hiện cùng một
lúc? Tuy nhiên, ở cuối thời kỳ đồ đá mới của xã hội thị tộc, Trái Đất của chúng
ta đã xuất hiện các nhóm người có đặc điểm tương đối thống nhất về sinh học di
truyền như màu da, màu tóc, màu mắt, hình thù mũi và tóc. Loài người này, ngày
nay chia thành hơn 50 chủng tộc khác nhau với những đặc điểm tương đối giống
nhau, nên có sự gặp gỡ lẫn nhau một cách thuận lợi và hiểu nhau qua giao tiếp
ngôn ngữ. Sự học hỏi ngôn ngữ của nhau đã mang lại nhận thức chung.
Một trong
những nguyên nhân xảy ra quá trình ấy là do con người ở trình độ phát triển của
xã hội lúc đó – tức là buổi ban đầu của xã hội thị tộc, thông qua lao động của
mình đã có khả năng sinh sống trong hoàn cảnh địa lý khác nhau, khí hậu khác
nhau. Do điều kiện ăn mặc của con người trong xã hội thị tộc lúc ấy còn đơn sơ,
nên phải chịu ảnh hưởng của môi trường. Họ phải chịu nắng, chịu rét và con
người không sống thọ được.
Từ thiên
niên kỷ thứ VIII đến thiên niên kỷ thứ VI, ở vùng Viễn Đông cổ và Bắc Ấn Độ đã
có nền sản xuất nông nghiệp, gồm trồng trọt và chăn nuôi, đi liền theo đó là sự
cải tiến tư liệu lao động. “Sự thay đổi về chất toàn bộ nền văn hóa vật chất và
tinh thần bắt nguồn từ cuộc phân công lao động đầu tiên ấy đã được chuẩn bị
trong một khoảng thời gian tương đối dài (cách đây khoảng 15 nghìn năm đến 8
nghìn năm). Trong quá trình ấy, dần dần con người được định cư và tận dụng
những điều kiện sinh thái thuận lợi ở vùng triền núi Tây Nam châu Á. Ở các vùng
ấy có giống lúa mì và ngũ cốc hoang dại sinh trưởng rất tốt”4. Dê, cừu là những nguồn lợi chính của
những người đi săn trên miền núi. Sau này, họ đã biết thuần dưỡng những con vật
trên. Do điều kiện dinh dưỡng khá hơn, nên dân số tăng nhanh dần, và tuổi thọ
của con người cũng được kéo dài ra. Sự xuất hiện nghề luyện kim và đúc lưỡi cày
có thể có từ thiên niên kỷ V đánh dấu một bước ngoặt cho ngành trồng trọt và
ngành chăn nuôi. Từ 5.500 năm trước công nguyên, con người đã biết sử dụng thủy
lợi để phục vụ trồng trọt, nhờ đó mà ngày càng có nhiều dạng sản phẩm được làm
ra. “Cuối cùng, phải đạt tới chỗ sản xuất ra sản phẩm thặng dư tối thiểu. Các
kết quả trong quá trình phát triển tiếp theo sau là sự phân hóa xã hội và sự
định hình vững chắc các gia đình riêng biệt”5.
Từ những biến đổi sâu sắc đó, xã hội thị tộc ở vùng Viễn Đông cổ của chúng ta
đã đạt tới đỉnh cao của sự phát triển, nhưng cũng là mầm mống chứa đựng sự tan
rã của xã hội ấy.
Ruộng đất
trong xã hội thị tộc vẫn là công hữu, dần dần kinh tế – xã hội, từ công hữu
chuyển dần sang tư hữu ruộng đất, và cũng từ đó, dần dần nảy sinh giới quý tộc
của công xã thị tộc.
Địa vị của giới tính trong xã hội thị tộc cũng dần dần thay
đổi. Chế độ phụ hệ dần dần thay thế chế độ mẫu hệ, vì phụ hệ đáp ứng được yêu
cầu sản xuât hơn mẫu hệ.
Những biến đổi về số lượng và chất lượng
của quan hệ sản xuất của con người trong xã hội thị tộc đã tạo điều kiện thuận
lợi cho lực lượng sản xuất phát triển, mặc dù vẫn trong khuôn khổ của xã hội
nguyên thủy. Cho đến cuối thiên niên kỷ IV bước sang đầu thiên niên kỷ III, quá
trình sản xuất và tái sản xuất mới đòi hỏi một cách khách quan hình thái tổ
chức mới cao hơn.
Do sự phân hóa xã hội ngày càng mạnh, cuối cùng, dẫn đến sự phân chia xã hội thành các giai cấp và lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tại Medopotami và Ai Cập bắt đầu xuất hiện xã hội có giai cấp và từ xã hội có giai cấp tiến đến đấu tranh giai cấp quyết liệt. Loài người từ đấy đầy máu, nước mắt và hoa.
Do sự phân hóa xã hội ngày càng mạnh, cuối cùng, dẫn đến sự phân chia xã hội thành các giai cấp và lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tại Medopotami và Ai Cập bắt đầu xuất hiện xã hội có giai cấp và từ xã hội có giai cấp tiến đến đấu tranh giai cấp quyết liệt. Loài người từ đấy đầy máu, nước mắt và hoa.
------
1.“Lược khảo lịch sử thế giới cho đến khi hình thành
chế độ phong kiến”, Béc lin, 1977, tr. 92.
2.Trong quá trình nghiên cứu, có nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội nguyên thủy chia ra hai giai đoạn: giai đoạn thời kỳ đồ đá cũ (giai đoạn 1) và giai đoạn thời kỳ đồ đá mới (giai đoạn 2). Xã hội thị tộc là giai đoạn hai của xã hội nguyên thủy. Tôi nghĩ rằng, việc phân chia này chỉ là tương đối.
2.Trong quá trình nghiên cứu, có nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội nguyên thủy chia ra hai giai đoạn: giai đoạn thời kỳ đồ đá cũ (giai đoạn 1) và giai đoạn thời kỳ đồ đá mới (giai đoạn 2). Xã hội thị tộc là giai đoạn hai của xã hội nguyên thủy. Tôi nghĩ rằng, việc phân chia này chỉ là tương đối.