NHỮNG NGHIÊN CỨU MỚI VỀ CON NGƯỜI (Bài 9): BÀN VỀ BẢN TÍNH CON NGƯỜI
PGS,TS sử học, Cử nhân Ngữ văn Đàm Đức Vượng,
Viện trưởng Viện Khoa học Nghiên cứu Nhân tài Nhân lực (!SSTH)
Viện trưởng Viện Khoa học Nghiên cứu Nhân tài Nhân lực (!SSTH)
1.Trong
một bài viết trên đây, tôi đã phân ích về bản chất con người. Trong bài này,
tôi phân tích về bản tính con người. Giữa bản chất và bản tính có gì khác nhau?
Bản chất là cái chất tự nhiên của con người khi mới sinh, chưa bị ảnh hưởng môi
trường xã hội bên ngoài. Bản tính là tính chất hay tính tình vốn có khi con
người đã bắt đầu biết tư duy. Có thể ví như bản chất là gốc rễ của cây, còn bản
tính là hoa lá cành của cây.
Từ trước tới nay, loài người đã có những nhận thức khác nhau về bản tính
con người. Hàn Phi Tử, một nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc thời xưa, cho rằng,
bản tính con người là ác, chứ không phải là thiện. Ông phủ nhận mọi lý luận đề
cao cái cao quý của con người. Ông đánh giá con người như vậy cũng có lý của
Ông. Đó là vì cuộc đời Ông với tư cách con vua. Hằng ngày, tiếp xúc với những
bọn nịnh thần, Ông thấy đâu đâu cũng là lừa dối, cơ hội, lợi dụng, tính toán,
mưu mô, xảo quyệt, nham hiểm. Hàn Phi rất căm thù những loại người này.
Lần theo lịch sử triết học, chúng ta thấy sách “Tam tự kinh” của Trung
Quốc xưa có viết lời của Khổng Tử: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Câu này có
nghĩa là con người ta sinh ra bản tính con người vốn thiện và tốt lành. Nhưng khi
lớn lên, do ảnh hưởng của đời sống xã hội, mà bản tính trở nên thay đổi, tính
ác có thể phát sinh, tính thiện có thể phai mờ. Vì vậy, cần phải được luôn luôn
giáo dục, giữ gìn và rèn luyện để cho đời sống lành mạnh, sao cho cái thiện
trùm lên và bắt cái ác phải rơi rớt xuống địa ngục trần gian. Đây là tư tưởng
lớn của Khổng Tử và được Mạnh Tử tiếp thu, trở thành lý luận của Nho giáo; đồng
thời, Mạnh Tử cũng phát triển thêm những ý mới, bổ sung vào học thuyết của thầy
Khổng Tử. Theo Mạnh Tử, bản tính con người là thiện, vì ai cũng có cái tâm.
Theo Mạnh Tử, tâm là là cái chủ đạo để điều khiển mọi hành vi của con người. Kể
cả Khổng Tử và Mạnh Tử đều cho rằng, bản tính của con người đều phải lấy nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín làm gốc, làm trọng. Những chuẩn mực mực này, các ông gọi là
“thiên lương” (Trời cho điều thiện).
Bên cạnh thuyết “Nhân chi sơ tính bản thiện” của Khổng Tử, còn có thuyết
“Bản tính con người là ác” của Tuân Tử (Tuân Khanh), nhà tư tưởng lớn của Trung
Quốc thời Chiến quốc. Tuân Tử nói: “Nhân chi tính ác, kỳ thiện giả ngụy dã”
(Bản tính con người là ác, những điều thiện là do con người đặt ra). Như vậy,
học thuyết của thầy Tuân Tử và của học trò Hàn Phi Tử đều cùng chung một dòng:
Bản tính con người là ác. Tuy nhiên, Tuân Tử cho rằng, bản tính con người là
ác, nhưng con người có thể trở thành thiện một khi được giáo dục tốt, vì cái
thiện ấy được tạo ra trong quá trình giáo dục. Ông cho rằng, tác dụng của giáo
dục sẽ biến con người từ ác trở thành thiện. Tuy định nghĩa con người sinh ra
đã là ác, nhưng Tuân Tử lại không chấp nhận những tội ác mà con người gây ra
đối với con người khác.
Từ quan niệm khác nhau về bản tính con người, Khổng Tử dùng nhân (đức) để trị nước, trị nước bằng cái tình; còn Tuân Tử dùng lễ để trị nước, sau phải đổi sang pháp trị để trị nước. Ở đây, phải nói rằng, nếu trị nước toàn bằng đức, thì nước sẽ không hãm được những kẻ ác có tội; còn nếu trị nước toàn theo pháp trị, mà không tính đến đức trị, thì nước sẽ không hiền hòa, không có lòng thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Vì vậy, phép trị nước, tốt nhất vẫn là sự kết hợp giữa pháp trị với đức trị.
Từ quan niệm khác nhau về bản tính con người, Khổng Tử dùng nhân (đức) để trị nước, trị nước bằng cái tình; còn Tuân Tử dùng lễ để trị nước, sau phải đổi sang pháp trị để trị nước. Ở đây, phải nói rằng, nếu trị nước toàn bằng đức, thì nước sẽ không hãm được những kẻ ác có tội; còn nếu trị nước toàn theo pháp trị, mà không tính đến đức trị, thì nước sẽ không hiền hòa, không có lòng thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Vì vậy, phép trị nước, tốt nhất vẫn là sự kết hợp giữa pháp trị với đức trị.
Tại Việt Nam, cụ Phan Bội Châu cho rằng, chữ “tâm” phải đi đôi với chữ
“đồng”, tức là đồng lòng đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đó là bản
tính con người. Phan Bội Châu luận rằng, lòng thương yêu con người phải hướng
tới lòng yêu nước thương nòi. Lòng yêu nước thương nòi chẳng những là phẩm chất
cao quý của con người mà con trách nhiệm và nghĩa vụ của con người đối với
giống nòi. Phan Bội Châu lấy nhiệt thành làm chính, lấy tinh thần yêu nước làm
mục đích, mang lại độc lập, tự do cho đất nước và hạnh phúc cho nhân dân, nhóm
họp đoàn thể, trao đổi tri thức, phục tùng công lý, sửa đạo đức công dân, mang
lại quyền lợi cho công dân, giúp đỡ nhau, thương yêu nhau, không ghét nhau,
không lừa dối nhau, không khinh bỉ nhau. Ông giải thích nước là họp muôn triệu
ức người lại mà thành! Yêu nước tức là yêu nhà. Nước còn, thì nhà còn, nước
mất, nhà tan. Theo Phan Bội Châu, yêu nước chính là yêu đồng bào, yêu mình, lợi
ích của quốc gia phải gắn liền với lợi ích của đồng bào và bản thân. Coi trọng
nhân nghĩa là đạo lý truyền thống Việt Nam. Người có nghĩa lớn là người dám
chấp nhận hy sinh cho sự sống còn của dân tộc. Đó là bản tính của con người,
cũng là bản tính của dân tộc Việt Nam mà nhà yêu nước Phan Bội Châu đã lý giải.
Hồ Chí Minh nhận định trên đời này có hai loại người thiện và ác. Người
thiện là người có đạo đức cách mạng trong sáng. Người ác là người mang nặng
trong mình chủ nghĩa cá nhân. Người nói: “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch hung ác
của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”1. Đánh giá về người thiện và người ác, Người
cho rằng, nhiều người rất chủ quan, đem lòng yêu ghét của mình mà đối với
người, không phân biệt được người thiện và người ác, làm cho cái thiện và cái
ác bị lẫn lộn, thậm chí cái ác lại lấn lướt cái thiện.
2.Vậy một câu hỏi đặt ra là “nhân chi sơ tính bản thiện” hay “nhân chi
sơ tính bản ác”. Đây là vấn đề cần phải được làm rõ. Muốn làm rõ, trước hết,
phải tìm hiểu cặn kẽ về bộ não con người. Đó là bộ phận trung tâm của hệ thần
kinh và là cơ quan chủ yếu trong điều hành hệ thần kinh ngoại vi. Hệ thần kinh
trung ương và bộ não – bộ phận cao cấp của nó – là cơ quan điều khiển, tức là
hệ thống phối hợp hoạt động giữa các cơ quan khác nhau và điều chỉnh quan hệ
qua lại của cơ thể với môi trường bên ngoài nhờ có sự phản ánh tâm lý. Bên
trong não là một hệ thống mạng nơrôn rất phức tạp và một số tuyến nội tiết. Một
số nơrôn tiếp nhận thông tin từ cơ thể, từ giác quan như mắt, mũi, tai, lưỡi,
da, từ hệ thần kinh bên ngoài và từ nhiều cơ quan khác trong cơ thẻ con người
tùy theo tủy sống lên não. Một số nơrôn khác có thể điều khiển tất cả các cơ
quan khác của cơ thể, như nhịp tim, nhịp thở, bắp thịt tạo di sự di chuyển. Các
tuyến nội tiết trong não tiếp nhận và phóng thích các hormone tạo liên hệ chặt
chẽ với các tuyến nội tiết trong cơ thể. Bộ não con người còn có chức năng tạo
ra những hoạt động cao cấp như suy nghĩ, tính toán, phán xét, trừu tượng, tưởng
tượng,… Bộ não con người trưởng thành và có trọng lượng trung bình khoảng từ
1,3 đến 1,4 kg, hoặc khoảng 2% tổng trọng lượng cơ thể với khối lượng khoảng
1130 cm3 ở đàn bà và 1260 cm3 ở đàn ông.
Những tư tưởng và công trình của Xêtsênốp và Páplốp đã đóng vai trò đặc
biệt quan trọng. Các ông đã chứng minh bản chất phản xạ của hoạt động tâm lý ở
động vật và con người. Ở con người, ngoài hệ thống tín hiệu thứ nhất của hiện
thực chung với động vật, đã hình thành tín hiệu thứ hai, tức là hệ thống tín
hiệu lời nói gắn liền với tư duy trừu tượng bằng ngôn ngữ. Trong bộ não có
những trung tâm chuyển về tri giác (thính giác và thị giác) và về việc phát âm
lời nói. Bản chất xã hội sâu sắc của con người đã biểu hiện không những trong
sự hình thành những cấu trúc hình thái học mới so với động vật, nhằm bảo đảm sự
giao tiếp bằng lời nói và tư duy bằng ngôn ngữ. Qua nghiên cứu, tôi thấy nếu
như ở động vật, kinh nghiệm chủng loại được truyền lại theo sự di truyền dưới
hình thức bản năng, thì ở con người, sự tiếp thụ những hình thức hoạt động đã
hình thành trong lịch sử, lại diễn ra trong tiến trình phát triển cá thể của
con người, con người đó có thể là thiện hay là ác. Vì vậy, những khả năng tiêu
biểu của con người như thính giác lời nói và thính giác âm nhạc, khả năng tư
duy trừu tượng là những chức năng không phải của các cấu trúc hình thái học, mà
là của các nhu cầu trúc động học thần kinh của bộ não có độ bền vững tương đối.
Sự tiến bộ của hoạt động tâm lý con người là gắn liền không phải với sự tiến
hóa hình thái học của bộ não như ở động vật, mà với sự phát triển những hình
thức của kinh nghiệm loài người, của việc bảo quản, truyền đạt và xử lý kinh
nghiệm đó cho đến cả việc xây dựng người máy nhằm làm giảm nhẹ lao động trí óc
và nâng cao năng lực sáng tạo của con người. Quan điểm điều khiển học đã giúp
cho bộ não có chí hướng hoạt động theo ý của mình.
Qua phân tích trên về bộ não con người, thấy rằng, “nhân chi sơ không
tính bản thiện và cũng không tính bản ác”, mà phải cho đến khi con người biết
nói, lúc đó mới bắt đầu hình thành bản tính thiện hay bản tính ác. Những
cái mà Tuân Tử và Hàn Phi Tử không nhìn ra là Ông đã “vơ đũa cả nắm”. Nếu loài
người ai cũng ác độc, thì có lẽ Trái Đất này đến nay đã không còn người nào
sống sót, do sự chém giết lẫn nhau. Vì vậy, bên cạnh những kẻ ác, xấu, còn có
những người thiện, tốt. Đó mới là cái nhìn biện chứng của một nhà tư tưởng, nhà
triết học.
Trong quá trình này, vai trò giáo dục của gia đình và xã hội là rất quan
trọng. Trên thực tế, nhiều người phạm tội là không được giáo dục và không hiểu
biết luật pháp.
3. Phân loại người thiện và người ác đang trở thành một môn khoa học cần
phải nghiên cứu.
Bản tính con người thiện là con người tốt, sống có đạo đức, có lòng
thương yêu người khác, nhất là những người gặp hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn
triền miên, những người chỉ có một phần sống và chín phần chết, không nơi nương
tựa; Những trẻ em mồ côi, tàn tật, sống lang thang trong xã hội. Họ sẵn sàng
tạo việc làm cho những người có nghề nghiệp, học vị trong tay, nhưng thất cơ lơ
vận. Trong công vụ, họ sẵn sàng giúp đỡ lớp trẻ, cấp dưới để sớm thành đạt. Họ
ghét cay ghét đắng những kẻ chỉ biết mình mà không biết người, chỉ chăm chăm
cho cuộc sống của mình mà không để ý đến cuộc sống của người khác; những kẻ
dùng người theo thân quen, cổ cánh, lo lót, trong khi đó, lại kèn cựa, cay cú
với những người thực tài, sẵn sàng vứt những người thực tài vào sọt rác; những
người không đếm xỉa gì đến nhân tình thế thái. Những người thiện là những người
biết “cần, kiệm, liêm, chính”, biết người, biết ta; biết sống bất biến giữa
dòng đời vạn biến; biết rõ sở trường của mình để tự động viên vươn lên…
Bản tính con người ác là con người xấu, xấu xa, tội lỗi, sống vô đạo
đức, không có tình thương yêu đối với mọi người, thiếu nhân cách, tư cách không
đàng hoàng; ác khẩu; những người cơ hội, không được giáo dục đến nơi đến chốn,
thể hiện là đem cuộc sống của mình chà đạp lên cuộc sống của người khác; ăn nói
hàm hồ; sống chỉ biết mình mà không hề biết đến người khác, chỉ vì mình mà
không vì xã hội; những kẻ giết người, cướp của; táng tận lương tâm. Trong công
vụ, công tác, họ không nhìn ra sở đoản của mình để khắc phục; chuyên đi bới lông
tìm vết làm hại người tài đức, dìm người tài đức bằng cách nói xấu người tài
đức trước mặt quan trên… Trong đối xử, họ coi khinh mọi người, không kính trên,
nhường dưới, thuận hòa với gia đình, đồng nghiệp, đồng đội; xu nịnh, khúm núm,
mềm nhũn với cấp trên và cứng rắn với cấp dưới; ở trong nhà, sống lụp chụp, cẩu
thả, bừa bãi, khi ra đường thì vi phạm luật lệ giao thông, gây tai nạn giao
thông và gây gổ với mọi người. Đó là những loại người rất tầm thường. Có những
người ác thuộc loại “miệng nam mô bụng một bồ dao găm”...
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải biết kết thân với những người thiện, động
viên người thiện làm việc tử tế, đứng về phía người thiện, bênh lẽ phải; đồng
thời, phải tăng cường giáo dục đối với những kẻ ác, khi không giáo dục được thì
phải dùng hình luật để trị những kẻ ác. Sống lương thiện luôn luôn là cuộc sống
tốt. Sống bạc ác luôn luôn là cuộc sống xấu, sẽ phải trả giá.
Biết rằng, ngày nay, không có xu hướng triết học nào nghiên cứu về con người, mà lại không biết rằng, tự ý thức của con người xuất hiện trong quá trình tác động qua lại giữa người này với người khác, có tính chất xã hội, tức là quá trình con người giao tiếp với nhau. Thiện và ác xuất hiện do những mâu thuẫn giai cấp còn tồn tại trong xã hội, nó làm nảy sinh những biểu hiện phức tạp của đời sống chính trị xã hội. Vì vậy, cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa nhân đạo đang trở thành vấn đề cuộc sống của con người. Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác đã, đang và sẽ diễn ra dai dẳng chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Muốn đè bẹp được cái ác trong mỗi con người, thì phải nhân cái thiện lên để lấn át cái ác.
Biết rằng, ngày nay, không có xu hướng triết học nào nghiên cứu về con người, mà lại không biết rằng, tự ý thức của con người xuất hiện trong quá trình tác động qua lại giữa người này với người khác, có tính chất xã hội, tức là quá trình con người giao tiếp với nhau. Thiện và ác xuất hiện do những mâu thuẫn giai cấp còn tồn tại trong xã hội, nó làm nảy sinh những biểu hiện phức tạp của đời sống chính trị xã hội. Vì vậy, cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa nhân đạo đang trở thành vấn đề cuộc sống của con người. Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác đã, đang và sẽ diễn ra dai dẳng chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Muốn đè bẹp được cái ác trong mỗi con người, thì phải nhân cái thiện lên để lấn át cái ác.
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải loại trừ mọi hình thức áp bức, bóc lột,
bất công trong xã hội; xóa bỏ tất cả những gì xúc phạm và hạ thấp con người để
nâng phẩm giá con người lên tầm cao mới.
------
1 Hồ Chí Minh: Toàn tâp, tập
9, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996, tr. 292.