ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG SÁNG NGỜI CỦA BÁC TÔN*
Kỷ niệm lần thứ 130 ngày sinh
Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20-8-1888-20-8-2018)
PGS,TS
Đàm Đức Vượng
Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888-1980)
1.
Chủ tịch Tôn Đức Thắng, còn có tên là Thoại Sơn, đồng bào miền Nam thường
gọi là anh Hai Thắng, nhân dân thường gọi bằng cái tên thân mật: Bác Tôn, sinh
ngày 20-8-1888, tại Cù lao Ông Hổ, làng Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, hạt Long
Xuyên (nay thuộc xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang), trong
một gia đình nông dân.
Năm 1906, sau khi tốt nghiệp sơ cấp
Tiểu học Đông Dương tại Long Xuyên, Bác Tôn rời quê hương lên Sài Gòn học nghề
thợ máy tại Trường Cơ khí Á Châu, tức Trường Bá nghệ. Sau khi tốt nghiệp Trường
Bá nghệ Sài Gòn, Bác Tôn được nhận vào làm thợ tại nhà máy Ba Son của Hải quân
Pháp tại Sài Gòn. Đây là xưởng đóng tàu và sửa chữa tàu biển. Năm 1912, Bác Tôn
tham gia tổ chức công nhân bãi công đòi quyền dân sinh dân chủ, cho nên đã bị
chủ nhà máy Ba Son sa thải. Một năm sau (1813), Bác Tôn sang Pháp, làm thợ ở
thành phố Toulon. Năm 1914, Bác Tôn được tuyển mộ làm lính thợ cho một đơn vị
hải quân Pháp trên chiến hạm France. Ngày 20-4-1919, tại chiến hạm này, Bác Tôn
đã tham gia phản chiến, chống lại sự can thiệp của quân đội Pháp đánh vào nước
Nga Xô viết, kéo cờ đỏ ủng hộ Cách mạng tháng Mười Nga.
Năm 1920, Bác Tôn về nước xây dựng cơ sở
công hội, phát triển mạnh tại Sài Gòn và các vùng công nghiệp lân cận, có lúc
lên tới 300 cơ sở. Những công hội mạnh nhất là nhà máy Ba Son, Nhà đèn Sài Gòn,
Nhà đèn Chợ Quán. Bác Tôn vận động công nhân đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ
làm, trì hoãn việc sửa chữa tàu chiến Pháp trên đường sang đánh Trung Quốc.
Cuộc đấu tranh này kéo dài từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1925.
Cuối năm 1926, đầu năm 1927,
Bác Tôn tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên Cách
mạng đồng chí Hội), một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời,
tham gia Ban Chấp hành Thành bộ Sài Gòn và Kỳ bộ Nam Kỳ của Hội.
Năm 1929, Bác Tôn bị địch bắt. Sau khi kết
án 20 năm tù khổ sai, nhà cầm quyền Đông Pháp đày Bác ra giam tại Côn Đảo với
dòng ghi chú trong hồ sơ: “Phần tử nguy hiểm” và quản thúc rất chặt, đưa vào
hầm xay lúa.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
ra đời, nhà tù Côn Đảo được giải phóng, Bác Tôn cùng các tù chính trị được trả
lại tự do. Về đất liền, Bác bắt tay ngay vào hoạt động cách mạng ở Nam Bộ, đảm
nhiệm chức vụ Ủy viên Ủy ban Kháng chiến – Hành chính Nam Bộ.
Trong cuộc Tổng tuyển cử đầu năm 1946,
nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), nhất trí bầu Bác Tôn
là đại biểu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam mới.
Năm 1946, Bác Tôn được điều đồng về Trung
ương công tác. Năm 1946, Bác được gặp Bác Hồ tại Hà Nội; trải qua nhiều chức vụ
công tác: Trưởng ban Thi đua ái quốc Trung ương, Trưởng ban Thường trực Quốc
hội, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Phó Chủ tịch nước,…
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời,
Quốc hội khóa III họp kỳ đặc biệt vào tháng 9-1969, nhất trí bầu Bác Tôn làm
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ở cương vị Chủ tịch nước, Bác Tôn đã
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và củng cố chính quyền dân chủ nhân
dân, động viên toàn dân tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cho đến
khi cách mạng giành toàn thắng, đất nước thống nhất.
Chủ tịch Tôn Đức Thắng từ trần ngày
30-3-1980, tại Hà Nội, thọ 92 tuổi, để lại niềm tiếc thương vô hạn đối với đồng
bào, đồng chí
.
2.
Toàn bộ cuộc đời hoạt động của Bác Tôn toát lên đạo đức cách mạng sáng ngời,
thể hiện trước nhất ở tinh thần yêu nước, yêu đồng bào, đồng chí. Nói đến Bác
Tôn là nói đến đạo đức chuẩn mực của một con người đi làm cách mạng, người công
nhân chân chính. Đó là tình cảm sâu sắc nhất của Bác đối với sự nghiệp giải
phóng dân tộc và mưu cầu cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, thể
hiện ở lòng tự hào dân tộc của người Việt Nam. Bác Tôn hiểu rõ quần chúng lao
động là những người yêu nước nhất, họ
biểu hiện lợi ích dân tộc thật sự. Tình yêu quê hương, đất nước của Bác kết hợp với lòng căm thù chế độ bóc lột và Bác
muốn giải quyết những bất công đó bằng cuộc đấu tranh sinh tử với mọi bất công
và áp bức xã hội, cụ thể là với chế độ thực dân và phong kiến phản động. Bác
Tôn hiểu rõ, muốn yêu nước thì phải đấu tranh chống lại áp bức, bất công xã
hội, bằng những hành động cách mạng. Bác Tôn nhận thức sâu sắc rằng, trong chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, tính dân tộc và tính quốc tế thống nhất với nhau,
chính vì vậy, hành động quốc tế đầu tiên là Bác đã giương cao lá cờ đỏ ủng hộ
Cách mạng tháng Mười Nga bằng việc phản đối quân đội Pháp chống lại nước Nga
cách mạng. Với Bác, chủ nghĩa yêu nước không chỉ mang tính chất dân tộc, mà còn
mang tính chất quốc tế.
Đạo đức cách mạng của Bác Tôn thể hiện ở
sự lựa chọn ý thức hệ. Bác không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa mà đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa chân chính. Giá trị đạo đức của Bác mang tính giai
cấp, còn nảy sinh và hình thành cả những giá trị đạo đức của con người, biểu
hiện nhu cầu, lợi ích của các giai cấp tiến bộ, mà trước hết là ở nhân dân lao
động. Đạo đức cách mạng của Bác Tôn biểu hiện của sự thống nhất trong việc lựa
chọn tư tưởng, chính trị và đường lối, được thể hiện trong tiêu chuẩn đạo đức ở
việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, ngày đêm ra sức xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong mọi hoàn cảnh. Bác có lòng tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân
dân, tinh thần đoàn kết anh em với với tất cả những người lao động và lấy đó
làm điểm tựa, chỗ dựa để hành động cách mạng. Sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích tập thể được chứng minh bởi những hành động đầy thiện chí
của Bác Tôn.
Đạo đức cách mạng của Bác Tôn thể hiện ở
tác phong quần chúng. Nhớ người xưa, cảnh cũ, có đôi lần Bác về thăm nơi làm
việc việc xưa, đó là thăm nhà máy Ba Son. Vị Chủ tịch nước đến với công nhân.
Bác không vào Văn phòng ngay, mà đi thẳng xuống phân xưởng Cơ khí, xưởng Trung
tâm của nhà máy với hơn 300 công nhân mà trước đó Bác đã từng làm việc. Bầu
không khí thân mật giữa vị Chủ tịch nước với công nhân diễn ra vô cùng thân mật
và giản dị. Những ngày lễ, ngày nghỉ, Bác thường đi xuống các xóm thợ thăm công
nhân hoặc về nơi ruộng đồng thăm nông dân bằng chiếc xe đạp mà Bác đã quen
dùng.
Đạo đức cách mạng của Bác Tôn thể hiện ở
nếp sống giản dị, tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời tư
trong sáng và tình thương yêu đối với con người. Ở trong con người Bác: cần là cần cù chăm chỉ làm việc; kiệm là tiết kiệm mọi mặt sinh hoạt hằng
ngày, kể cả tiết kiệm thời gian, tiết kiệm là không ăn chơi xa xỉ; liêm là liêm khiết, thanh liêm, không
tham ô (tham nhũng); chính là chính
trực, đường đường chính chính, không lắt léo làm những việc sai trái, đi ngược
với đạo lý làm người. Bác rất quý trọng những người có đạo đức. Cần, kiệm, liêm,
chính còn thể hiện ở tinh thần kiên nhẫn. Bác thấm thía câu nói của Bác Hồ:
“Kiên trì và nhẫn nại
Không chịu lùi một phân.
Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần”.
(Hồ Chí Minh: Nhật ký trong tù).
“Con người”, hai tiếng ấy vang lên trong
lòng Bác Tôn. Bác thường nhắc đến câu nói của Bác Hồ: “Người là vốn quý nhất”,
bởi có người là có tất cả, thu phục được lòng người là thu phục được tất cả.
Đạo đức cách mạng của Bác Tôn thể hiện ở
sự gương mẫu tuyệt đối của bản thân. Người ta thấy vị Chủ tịch nước Tôn Đức
Thắng, cứ sau giờ làm việc, lại đi cuốc đất trồng cây; ngồi sửa chữa xe đạp mà
Bác dùng nó để đi dạo phố và tập thể dục; nhiều lúc ngồi khâu vá quần áo, trông
như một nhà hiền triết làm các công việc của đời thường. Nhà Bảo tàng tỉnh ở
đường Thoại Ngọc Hầu, thị xã Long Xuyên, trưng bày chiếc xe đạp cũ. Chiếc xe
đạp mang biển số đăng ký VR.735. Đó là chiếc xe đạp của Bác đã mang nó từ Việt
Bắc về thủ đô Hà Nội. Từ núi rừng Việt Bắc, Bác dùng chiếc xe đạp này để đi
công tác và đi họp. Còn ở Hà Nội, Bác dùng nó để tập thể dục và đi thăm bà con
trong những ngày nghỉ. Bác thích lao động, bởi lao động tạo nên đạo đức trong
xã hội, nó không đối lập lại sự kích thích bằng vật chất, mà nó kết hợp hài hòa
với nhau. Hơn nữa, với Bác, tinh thần lao động thường mang lại niềm vui và niềm
tin yêu, hy vọng cho con người. Ở Bác Tôn, sự gương mẫu còn thể hiện ở đời tư
rất trong sáng, nếp sống giản di. Bác sống không cầu kỳ, mà rất đơn sơ, thắm đượm
tình người; đối nhân xử thế thật tuyệt vời. Bác không bao giờ tranh giành, kèn
cựa, địa vị với bất cứ ai. Đảng và Nhà nước phân công việc gì, Bác làm việc ấy.
Từ việc nhỏ đến việc to, Bác đều hoàn thành đến nơi đến chốn. Bác ghét thói
ganh tị, kèn cựa, địa vị, tranh giành ngôi thứ, vì Bác cho rằng, ở ngôi cao mà
đức mỏng chẳng bằng ngôi thấp mà đức dày. Tài hèn, đức mọn mà ngồi ghế cao sẽ
có lúc đổ kềnh. Bác thường tâm sự với anh em phục vụ là ở vị trí công việc thấp
mà hoàn thành nhiệm vụ còn hơn ở vị trí công việc cao mà không hoàn thành nhiệm
vụ.
“Hôm nay, chẳng những chúng ta ở đây mà
toàn thể đồng bào ta từ Bắc đến Nam và toàn thể nhân dân thế giới yêu chuộng
hòa bình đều vui mừng chúc người lão thành chiến sĩ cách mạng Tôn Đức Thắng
sống lâu, mạnh khỏe.
Thay mặt nhân dân và Chính phủ, tôi trân
trọng trao tặng đồng chí Tôn Đức Thắng Huân chương Sao Vàng là Huân chương cao
nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu
tiên và người rất xứng đáng được tặng Huân chương ấy”.
“Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu
đạo đức cách mạng; suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”.
Xúc động trước lời tuyên dương của Bác
Hồ, Bác Tôn đáp lại bằng những lời lẽ thắm thiết:
“Trong buổi lễ vinh quang này, tôi nghĩ
đến thời kỳ tôi còn ấu trĩ, đến những lúc khó khăn, hiểm nghèo, Đảng đã dìu
dắt, giáo dục tôi, nhân dân đã rèn luyện và giúp đỡ tôi để có được ngày nay.
Huân chương này mãi mãi nhắc nhở tôi, lời
Hồ Chủ tịch nói hôm nay sẽ mãi mãi khuyến khích tôi trung thành đến phút cuối
cùng trong cuộc đấu tranh cho hòa bình và thống nhất đất nước thân yêu, cho chủ
nghĩa xã hội, cho hạnh phúc yên vui của toàn thể nhân loại.
Trong giờ phúc cảm động này, tôi không
biết nói gì hơn là hứa lấy cố gắng của tôi để đền đáp công ơn của Đảng, công ơn
của Hồ Chủ tịch, người sáng lập và xây dựng Đảng, đã đưa tôi vào con đường vẻ
vang và để đền đáp sự tín nhiệm của nhân dân và Chính phủ”.
Bác Hồ là linh hồn của chính sách đại
đoàn kết dân tộc, Bác Tôn là người tiêu biểu cho chính sách đó. Cả hai Bác đều
luôn luôn mong muốn cho dân tộc mình, đất nước mình mãi mãi nở hoa độc lập, kết
quả tự do!
------
*
Bài đăng báo Quân đội Nhân dân, số ra ngày 16-8-2018.