Câu chuyện giáo dục: Đề xuất 9 tiêu chí xếp hạng đại học Việt Nam
9 tiêu chí với trọng số từ 5 tới 30%, phụ thuộc vào đại học thuộc nhóm nghiên cứu, ứng dụng - kỹ thuật hay công nghệ - nghề nghiệp.
Trong báo cáo gửi Hội thảo Giáo dục 2018 của Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng, ông Trần Khánh Đức (Đại học Bách khoa Hà Nội) đề xuất tháp phân tầng và bộ tiêu chí xếp hạng cơ sở giáo dục đại học Việt Nam dựa trên kinh nghiệm quốc tế.
Phân chia đại học Việt Nam thành 3 tầng
Ông Trần Khánh Đức thông tin, Mỹ hiện có 4.386 đại học, cao đẳng. Hoạt
động phân tầng và xếp hạng các cơ sở không chịu sự chi phối của cơ quan
quản lý nhà nước mà do tổ chức truyền thông - xã hội thực hiện.
Tuy không có bảng phân tầng chính thức, hệ thống giáo dục đại học
Mỹ có các nhóm/tầng cơ bản sau: nhóm đại học nghiên cứu đa ngành (như
Harvard, Chicago, Stanford, MIT...); nhóm đại học ở các bang, tiểu bang
(như Đại học bang California, bang New York); nhóm trường cao đẳng/cao
đẳng cộng đồng thời gian đào tạo khoảng 2 năm.
Hệ thống giáo dục đại học Hàn Quốc với khoảng 250 trường cũng được xây dựng theo mô hình tương tự Mỹ với tầng 1 là trường quốc
gia có đẳng cấp quốc tế như Đại học Quốc gia Seoul, Viện Công nghệ tiên
tiến Hàn Quốc (KAIST). Tầng 2 là các trường ngoài hệ thống quốc gia như
Đại học Incheon, Gachon. Và tầng 3 là các cao đẳng công nghiệp, kỹ
thuật...
Còn ở Trung Quốc, hệ thống đại học gồm hơn 1.200 cơ sở được phân tầng
theo công thức 10-100-1000. Trong đó, top đầu là 10 đại học nghiên cứu
theo đẳng cấp quốc tế như trường Bắc Kinh, Thanh Hoa, Phúc Đán, Giao
thông Vận tải Thượng Hải. Tầng 2 bao gồm 100 trường đẳng cấp quốc gia và
tầng 3 là 1.000 đại học địa phương.
Từ kinh nghiệm của thế giới và dựa theo sứ mạng, mục tiêu của các đại
học Việt Nam, ông Trần Khánh Đức chia đại học Việt Nam thành 3 tầng.
Tầng đầu tiên là các đại học khoa học và nghiên cứu theo đuổi sứ
mạng, mục tiêu đẳng cấp khu vực và quốc tế về nghiên cứu, đào tạo nhân
lực trình độ, chất lượng cao (tiến sĩ, sau tiến sĩ và thạc sĩ theo hướng
hàn lâm, nghiên cứu).
Một số cơ sở ở top này là Đại học Quốc gia Hà Nội và TP HCM, Đại học
Bách khoa Hà Nội và TP HCM, Y-Dược Hà Nội và TP HCM, Đại học Kinh tế
quốc dân, Đại học Sư phạm Hà Nội hay Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Tầng
này chiếm khoảng 10% tổng số trường.
Tầng thứ hai, theo ông Đức, là các đại học khoa học ứng dụng và kỹ thuật
theo ngành, chuyên ngành, như: Đại học Xây dựng, Nông - lâm, Mỏ - địa
chất, Công nghiệp, Sư phạm, Bưu chính viễn thông, Ngoại thương, Thương
mại. Tầng này chiếm khoảng 30%.
Tầng cuối cùng chiếm khoảng 60% là các đại học công nghệ và nghề nghiệp
bao gồm trường theo hướng thực hành, nghề nghiệp ở các vùng, địa phương,
như: Đại học Điện lực, Đại học Thủ đô, Hải Phòng...
Gợi ý bộ 9 tiêu chí xếp hạng đại học Việt Nam
Có nhiều hệ thống xếp hạng quốc tế về giáo dục đại học với một số hệ thống nổi tiếng như ARWU, QS, THE.
“Cùng chung chuẩn mực về đào tạo và nghiên cứu cùng các điều kiện đảm
bảo chất lượng, nhưng mỗi hệ thống xếp hạng có triết lý, mục đích và các
chuẩn mực, tiêu chí khác nhau”, ông Đức nêu trong báo cáo và cho biết
thêm nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Việt Nam hiện tại nên tham gia hệ
thống xếp hạng QS Asia (bảng xếp hạng QS châu Á) và một số trường mạnh
có thể tham gia QS Word hoặc THE để làm quen dần với luật chơi và chuẩn
mực quốc tế.
Với cách phân chia cơ sở giáo dục đại học thành 3 tầng, ông Đức cho rằng
xếp hạng đại học trong nước nên theo từng tầng đó với 9 tiêu chí đánh
giá.
Tiêu chí 1 là chất lượng đào tạo, chiếm 20-30% được đưa ra dựa trên đánh
giá của người học, người sử dụng lao động và mức độ phù hợp với sứ
mạng, mục tiêu đào tạo.
Tiêu chí 2 là chất lượng nghiên cứu khoa học và công nghệ, chiếm 20-30%,
được đánh giá qua các giải thưởng nghiên cứu khoa học và công nghệ của
sinh viên, giảng viên; bài báo khoa học quốc tế; sản phẩm, thu nhập từ
nghiên cứu; các giải thưởng khoa học và công nghệ trong nước và quốc tế;
đánh giá của giới học thuật trong và ngoài nước.
Tiêu chí 3 là chất lượng đội ngũ giảng viên, chiếm từ 10 đến 15%, được
đánh giá bằng tỷ lệ giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ; tỷ lệ giảng viên/sinh
viên; số giảng viên được mời thỉnh giảng trong nước và quốc tế; số/tỷ
lệ giảng viên có các giải thưởng, bằng sáng chế khoa học và công nghệ
quốc gia và quốc tế.
Tiêu chí 4 là chương trình đào tạo, chiếm 10-15%, được đong đếm bằng
đánh giá của chuyên gia về chương trình đào tạo; số lượng/tỷ lệ chương
trình đào tạo tiên tiến/chất lượng cao; số lượng/tỷ lệ chương trình đào
tạo được kiểm định trong nước và khu vực/quốc tế.
Tiêu chí 5 là cơ sở vất chất/học liệu, chiếm 10-20%, được đánh giá dựa
trên số liệu về giảng đường, phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, thư
viện, khu thể thao; ý kiến đánh giá của sinh viên, giảng viên, chuyên
gia về sự phù hợp, chất lượng và hiệu quả của cơ sở vật chất.
Tiêu chí 6 là uy tín quốc tế, chiếm 5-10%, dựa trên kết quả hợp tác quốc
tế trong đào tạo và nghiên cứu, dịch vụ; thành viên các hiệp hội giáo
dục đại học khu vực và quốc tế.
Tiêu chí 7 là uy tín trong nước, chiếm 5-10%, được đánh giá dựa trên kết
quả hợp tác trong nước; ý kiến của đối tác trong nước (doanh nghiệp, tổ
chức sử dụng lao động); đánh giá của báo chí, truyền thông, hiệp hội xã
hội - nghề nghiệp.
Tiêu chí 8 là tỷ lệ việc làm sau tốt nghiệp và phát triển nghề nghiệp
của sinh viên tốt nghiệp, chiếm 10-15%, được đo bằng kết quả khảo sát
việc làm của sinh viên tốt nghiệp hàng năm và số lượng sinh viên thành
đạt.
Tiêu chí 9 là quản trị đại học (10-15%), được đánh giá dựa trên tổ chức
bộ máy và cơ chế quản lý nhà trường; đánh giá của chuyên gia, nhà quản
lý; ý kiến của cán bộ quản lý, giảng viên, sinh viên nhà trường.
Ông Đức nhấn mạnh việc đánh giá xếp hạng dựa trên bộ tiêu chí này được
thực hiện theo các phân tầng của cơ sở giáo dục đại học với sự điều
chỉnh tỷ trọng % ở các tiêu chí cho phù hợp với từng tầng. Kết quả xếp
hạng ở từng tầng dựa trên tổng số tỷ trọng % của từng tiêu chí đạt được
của từng cơ sở giáo dục đại học được đánh giá (tương ứng 1% là 1 điểm và
tối đa là 100 điểm).
Dương Tâm