NHỮNG CỐNG HIẾN TO LỚN CỦA HOÀNG ĐÌNH GIONG ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM*
PGS,TS Sử học – Cử nhân Ngữ văn Đàm Đức Vượng, Viện trưởng Viện Khoa học Nghiên cứu Nhân tài Nhân lực (ISSTH) **
Khu tưởng niệm đồng chí Hoàng Đình Giong tại Cao Bằng
1. Hoàng Đình Giong còn có tên Văn Tư, Võ Văn Đức, sinh ngày
1-6-1904, tại làng Nà Toàn, xã Xuân Phách (nay là phường Đề Thám), huyện Hòa
An, tỉnh Cao Bằng, trong một gia đình nông dân nghèo có truyền thống yêu nước.
Ông nội của Hoàng Đình
Giong đã từng tham gia phong trào yêu nước chống Pháp tại địa phương Cao Bằng.
Cha mẹ sinh được 10 người con. Hoàng Đình Giong là con trai thứ ba. Các anh,
chị em trong gia đình đều tham gia và ủng hộ cách mạng trong những năm 1929,
1930 và cả trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp xâm lược. Gia đình anh thường
xuyên nhận cán bộ vào ở trong gia đình, che giấu, đùm bọc, chăm sóc chu đáo. Có
cán bộ ốm “thập tử nhất sinh”, gia đình chạy chữa thuốc men, qua khỏi, tiếp tục
hoạt động cách mạng. Qua việc nuôi giấu cán bộ, anh được cán bộ giác ngộ tinh
thần yêu nước và cách mạng. Anh sớm bộc lộ tư tưởng yêu nước, chống Pháp, tuyên
truyền tư tưởng yêu nước cho nhân dân thị xã (nay là thành phố) Cao Bằng và
nhân dân các huyện Hòa An, Hà Quảng.
Năm 1925, 1926, Hoàng Đình
Giong rời Cao Bằng, ra Hà Nội, học Trường Bách nghệ. Tại Hòa Nội, anh tìm đến
và tham gia các tổ chức yêu nước, tham gia tổ chức lễ truy điệu nhà yêu nước
Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh) vào năm 1926. Lúc này, hai nhà hoạt động cách
mạng chuyên nghiệp là Hoàng Văn Thụ và Lương Văn Chi lập ra một nhóm thanh niên
yêu nước ở Lạng Sơn. Hoàng Đình Giong đã bắt lạc được với nhóm này trong lúc
anh đang học tại trường Bách Nghệ. Được một thời gian, anh bị đuổi học vì tham
gia các phong trào yêu nước. Anh trở về Cao Bằng, tiếp tục hoạt động, tuyên
truyền tinh thần yêu nước, chống Pháp trong một số xã, huyện tại Cao Bằng.
Cuối năm 1925, Hoàng Đình
Giong bắt liên lạc được với tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam
Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội), một tổ chức yêu nước và cách mạng do Nguyễn
Ái Quốc sáng lập tại Quảng Châu vào năm 1925 và xin gia nhập tổ chức này vào
khoảng năm 1927. Anh biết đến hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc qua những
sách, báo của Người từ nước ngoài được gửi đến Cao Bằng,
Năm 1927, Hoàng Đình Giong
dạy học tại huyện Hà Quảng, Cao Bằng. Tại đây, anh vừa dạy học, vừa hoạt động
cách mạng, xây dựng được một số cơ sở cách mạng tại địa phương. Chính quyền
Đông Pháp tại Cao Bằng đánh hơi thấy những hoạt động yêu nước và cách mạng của
Hoàng Đình Giong, cho nên đã bí mật theo dõi anh. Biết đã bị lộ, anh xin chuyển
sang làm việc tại mỏ Bản Ty thuộc tỉnh Bắc Cạn. Nhưng ở Bản Ty, mật thám Pháp
cũng đã biết đến anh và theo dõi những hoạt động của anh. Trước tình hình phức
tạp đó, buộc anh phải chạy qua biên giới Việt – Trung để hoạt động. Tại vùng
biên giới Việt – Trung, Hoàng Đình Giong gặp Hoàng Văn Thụ và một số cán bộ
đang hoạt động ở đây.
Đông Dương Cộng sản Đảng,
một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, thành lập ngày 17-6-1929, tại
nhà số 312, phố Khâm Thiên, Hà Nội. Hoàng Đình Giong xin gia nhập tổ chức này.
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Hoàng Đình Giong trở
thành đảng viên của Đảng và đến tháng 10-1930, tại Hội nghị Trung ương lần thứ
nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Hoàng đình
Giong trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ đấy, anh càng gắn bó với
Đảng Cộng sản và mang hết tinh thần trách nhiệm của mình ra hoạt động vì sự
nghiệp cách mạng của Đảng.
Cuối năm 1929, Hoàng Đình
Giong, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Văn Nọn (Tú Hưu) đứng ra thành lập Chi bộ cộng sản
đầu tiên của Đông Dương Cộng sản Đảng ở vùng biên giới Việt – Trung (Long Châu,
Trung Quốc), do Hoàng Đình Giong làm Bí thư cùng hai Chi ủy viên là Hoàng Văn
Thụ và Hoàng Văn Nọn. Hoàng Văn Thụ được phân công làm công tác vận động quần
chúng và Hoàng Văn Nọn được phân công làm công tác phát triển đảng viên, còn
Hoàng Đình Giong thì phụ trách chung.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt
Nam được thành lập, Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Văn Nọn trở về Cao
Bằng, tiếp tục gây cơ sở cách mạng, cơ sở đảng tại Cao Bằng. Tại Cao Bằng, cụ
thể là tại hang Lam Sơn, Hoàng Đình Giong và Chi bộ Đảng ra tở báo Búa Liềm và
tờ Cờ Đỏ nhằm tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản tại các khu vực miền núi phía Bắc
Việt Nam.
Ngày 1-4-1930, tại khe
suối Nặm Lin thuộc xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, Cao Bằng, Hoàng Văn Nọn, Hoàng
Văn Thụ, Hoàng Đình Giong tổ chức kết nạp được 2 đảng viên là Nông Văn Đô và Lê
Đoàn Chu vào Đảng, đồng thời, thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên
tại Cao Bằng do Hoàng Văn Nọn làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo của Đảng tại Cao
Bằng, phong trào ở Cao Bằng phát triển mạnh.
Năm 1932, Hoàng Đình Giong
sang Nam Ninh, Trung Quốc. Tại đây, được cử vào Ban Chỉ huy Hải ngoại (tức Ban
Chỉ huy ở ngoài). Anh xin vào làm việc
tại nhà máy Nam Hưng, sinh hoạt đảng ngay tại Chi bộ Nhà máy. Anh còn được dự
lớp huấn luyện chính trị do Lê Hồng Phong phụ trách. Sau đó, anh được bố trí
vào làm việc tại Ban Chỉ huy Hải ngoại và chịu trách nhiệm mở các lớp huấn
luyện tại Long Châu. Nhiều lần, anh bí mật về Cao Bằng để nhận những đảng viên
trẻ trong nước sang học tại các lớp huấn luyện ở Long Châu.
Thực hiện sự phân công của
Ban Chỉ huy Hải ngoại, đầu năm 1934. Hoàng Đình Giong được giao nhiệm vụ bí mật
xuống Hải Phòng, Hòn Gai hoạt động với cương vị là Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ. Anh đã
kiến thiết đường dây liên lạc ở vùng duyên hải với Xứ ủy; đồng thời, xây dựng
lại các tổ chức đảng và đoàn thể quần chúng tại Hải Phòng, Hòn Gai và các cơ sở
ở ven biển miền Trung.
Đầu năm 1935, Hoàng Đình
Giong được cử đi dự Đại hội I của Đảng họp tại Ma Cao từ ngày 27 đến ngày
31-3-1935, dưới sự chủ trì của đồng chí Hà Huy Tập. Lúc này, các đồng chí
Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Nọn di dự Đại
hội VII Quốc tế Cộng sản, cho nên không tham dự Đại hội Ma Cao được. Đại hội đã kiểm điểm
phong trào cách mạng, công tác tổ chức và lãnh đạo Đảng trong những năm qua.
Đại hội quyết nghị ba nhiệm vụ chính mà các đảng bộ phải tập trung lực lượng để
thực hiện. Đó là cũng cố và phát triển Đảng; thu phục đông đảo quần chúng làm
cách mạng; chống chiến tranh đế quốc. Đại hội quyết định phải tăng cường lực
lượng của Đảng bằng cách phát triển đảng viên tại các nhà máy, đồn điền, hầm
mỏ, đường giao thông quan trọng, nói chung là ở trung tâm công nghiệp. Đại hội
nhất trí phải tăng cường thành phần công nhân trong Đảng. Đại hội còn quyết
định các đảng bộ phải chăm lo bênh vực quyền lợi của quần chúng, đặc biệt, quan
tâm đến các dân tộc thiểu số, thành niên, phụ nữ,…
Tại Đại hội, Hoàng Đình
Giong đã phát biểu ý kiến, nêu rõ kết quả hoạt động của các tổ chức đảng và tổ
chức quần chúng ở các tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó có Cao Bằng và phong
trào đấu tranh của công nhân vùng duyên hải, được Đại hội ghi nhận.
Đánh giá về kết quả và hạn
chế của Đại hội Ma Cao, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
“Năm `1935, Đảng họp Đại
hội lần thứ nhất ở Ma Cao. Đại hội đã nhận định tình hình trong nước và tình
hình thế giới, kiểm thảo lại công tác đã qua và ấn định chương trình cho công
tác sắp tới.
Nhưng chính sách Đại hội
Ma Cao vạch ra không sát với phong trào cách mạng thế giới và trong nước lúc
bấy giờ (như định chia ruộng đất cho công nhân nông nghiệp, chưa định rõ nhiệm
vụ chống phát xít và nguy cơ chiến tranh phát xít,v.v.)1.
Đại hội đã thông qua Điều
lệ Đảng và Điều lệ các tổ chức quần chúng. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành
Trung ương mới của Đảng gồm 13 người, Hoàng Đình Giong được bầu vào Ban Chấp
hành Trung ương Đảng và Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương khóa I.
Hoạt động tại Ma Cao một
thời gian, đến cuối năm 1935, Hoàng Đình Giong trở về Cao Bằng. Các đồng chí
trong Tỉnh ủy Cao Bằng đã trao đổi với đồng chí Hoàng Đình Giong về tình hình
cách mạng ở Cao Bằng và ở các tỉnh miền
núi phía Bắc. Qua ý kiến của các đồng chí trong Tỉnh ủy Cao Bằng, Hoàng Đình
Giong thấy được những khó khăn phức tạp của tình hình hiện tại và cùng với Tỉnh
ủy Cao Bằng đề ra công tác, nhiệm vụ mới cho các tỉnh phía Bắc và công nhân
vùng mỏ. Anh phổ biến Nghị quyết Đại hội Ma Cao để cho các đồng chí Cao Bằng
quán triệt.
Một thời gian sau, Hoàng
Đình Giong lấy tên là Văn Tư, được Đảng điều động về hoạt động tại Hải Phòng và
vùng mỏ Đông bắc. Đây cũng là nguyện vọng của anh. Để tránh sự theo dõi của mật
thám địch, tổ chức cử một nữ đồng chí cùng đi với anh. Hai người đóng giả một
cặp tình nhân. Vượt qua chặng đường gian nan vất vả, từ Cao Bằng về đến Hải
Phòng, cuối cùng anh cũng đến được Hải Phòng.
Hoạt động tại Hải Phòng và
các tỉnh miền duyên hải được một thời gian, Hoàng Đình Giong bị sa vào lưới
địch. Bắt được Hoàng Đình Giong, bọn mật thám tây, ta dùng mọi cực hình tra
tấn, rồi lại mua chuộc, mua chuocj không được, lại tra tấn, nhưng anh không một
lời khai báo. Tra tấn, dụ dỗ, mua chuộc không được, mật thám giải anh lên Hà
Nội. Bị giam tại Hà Nọi, anh bị tra khảo nặng hơn khi còn bị giam ở Hải Phòng,
nhưng trước sau, anh vẫn giữ vững tinh thần, không một lời khai báo, tuyệt đối
không tiết lộ bí mật trong Đảng và trong các đoàn thể yêu nước. Tuy không đủ
bằng chứng, nhưng tòa án thực dân tại Hà Nội vẫn kết án anh 5 năm tù giam và
đày lên giam tại nhà tù Sơn La.
Năm 1940, Hoàng Đình Giong
mãn hạn tù, nhưng nhà cầm quyền Đông Pháp vẫn chưa chịu trả lại tự do cho anh
và đưa về giam tại trại tập trung Bắc Mê, tỉnh Hà Giang.
Nhận thấy ở con người
Hoàng Đình Giong có mối nguy hiểm khôn lường đối với chế độ thực dân, tháng 5-1941, nhà cầm quyền Đông Pháp đày anh
cùng 10 tù chính trị khác sang giam cầm tại đảo Nôxilava ở Mađagátxca, một
thuộc địa của Pháp tại châu Phi. Mặc dù ở xa Tổ quốc, nhưng Hoàng Đình Giong và
những đồng chí của anh bị giam cầm tại đảo vẫn một lòng canh cánh lo cho thân
phận đất nước đang bị gót giày đinh của thực dân giày xéo và suy nghĩ cách được
trở về Việt Nam.
Trong những ngày bị giam
cầm trên đảo Nôxilava, Hoàng Đình Giong đứng ra dạy văn hóa và chính trị cho
anh em tù nhân. Anh còn tổ chức cho anh em tăng gia sản xuất để tự cải thiện và
dành dụm được chút ít tiền để khi có điều kiện sẽ trở về Tổ quốc.
Tại tại nước Pháp lúc này
chia làm hai phe phái chính trị cai trị: phái Pê tanh và phái Đờgôn, sau đó làm
Tổng thống nước Pháp. Cũng như ở Đông Dương lúc này chia làm hai phái: Phái
Đờgôn và phái Đờcu. Lúc này, phái Đờgôn đã chiềm được đảo Mađagátxca, một hòn
đảo mà trước đó phái Pêtanh, Thống chế quân đội Pháp, đồng thời là Thủ tướng
trong Chính phủ Vichhy, chiếm. So với phái Pêtanh, phái Đờgôn có phần ôn hòa
hơn. Hoàng Đình Giong sáng suốt, sớm nhận ra điều này, cho nên đã đứng ra vận
động anh em tù chính trị viết đơn yêu cầu Chính phủ Đờgôn trả lại tự do cho anh
em tù chính trị ở Việt Nam đang bị giam cầm ở Mađagátxca, với lý do: tù chính
trị là những người chống phát xít, bị Chính phủ Pêtanh bắt. Nay Chính phủ Đờgôn
đã thắng, lại nằm trong Mặt trận đồng minh chống phát xít, thì không có lý do
gì không trả lại tự do cho tù chính trị là những người cùng chống phát xít. Thế
là không bao lâu, chính quyền thân Đờgôn tại đảo này đã đưa Hoàng Đình Giong và
Dương Công Hoạt về Thủ phủ Mađagátxca. Tiếp đó, nhà cầm quyền Anh lại đưa số
anh em còn lại sang giam cầm tại Cancútta, Ấn Độ. Trước khi chia tay, Hoàng
Đình Giong căn dặn anh em tù nhân chính trị Việt Nam là bất cứ giá nào cũng
phải tìm đường trở về Tổ quốc để tiếp tục hoạt động cách mạng.
Sống tại Thủ phủ Mađagátxca
được ít ngày, nhà cầm quyền Pháp tại Mađagátxca hứa sẽ trả lại tự do cho các tù
nhân chính trị Việt Nam, nhưng chưa về nước ngay được vì chưa có tàu sang Đông
Dương. Trong những ngày chờ tàu về Đông Dương, Hoàng Đình Giong và Dương Công
Hoạt phải đi lao động ở nhà máy sửa chữa ô tô. Chờ mãi, không có tàu sang Đông
Dương, nhà cầm quyền Pháp tại Mađagátxca phải đưa Hoàng Đình Giong và Dương
Công Hoạt sang Ấn Độ; sau đó mới trở về Việt Nam.
Năm 1943, Hoàng Đình Giong
bí mật về đến Cao Bằng và đã liên lạc được với tổ chức Đảng để báo cáo tình
hình. Đảng quyết định anh cần trở lại
Cancútta, Ấn Độ để đưa các đồng chí ta về nước. Khoảng cuối năm 1944,
Hoàng Đình Giong và các tù nhân chính trị Việt Nam bị giam cầm ở Mađagátxca
(sau đó ở Ấn Độ) về nước được an toàn.
Vào khoảng giữa năm 1945,
Hoàng Đình Giong được bổ sung vào Tỉnh ủy Cao Bằng, trực tiếp phụ trách quân
sự. Tháng 7-1945, Hoàng Đình Giong chỉ huy các lực lượng vũ trang tỉnh Cao
Bằng, đánh thắng đồn của Pháp ở Chung Thắng, tiêu diệt hàng trăm tên địch, thu
nhiều vũ khí. Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, Hoàng Đình Giong đã cùng với
quân và dân tỉnh Cao Bằng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Để tăng cường cho chiến
trường Nam Bộ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chính phủ cử Hoàng Đình Giong
chỉ huy đoàn quân giải phóng tiến vào Nam để cùng với quân và dân Nam Bộ kháng
chiến chống Pháp xâm lược trở lại. Lúc này, anh lấy tên là Vũ Văn Đức, tên do
Bác Hồ đặt cho trước khi lên đường vào Nam chiến đấu.
Tại miền Nam, Hoàng Đình
Giong được cử làm Tư lệnh Quân khu 9, phát động chiến tranh nhân dân ở miền Tây
Nam Bộ. Đặc biệt, tại tỉnh Sóc Trăng, quân ta thành lập đại đội chủ lực, lấy
tên là Đại đội Hồ Chí Minh. Hoàng Đình Giong đã đến dự lễ xuất quân của Đại đội
và công nhận đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của tỉnh Cao Bằng.
Sau khi ra miền Bắc họp,
đầu năm 1947, Hoàng Đình Giong đến công tác tại tỉnh Ninh Thuận, thì nhận được
được điện của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, chỉ định anh làm Tư lệnh trưởng Quân
khu 6 của các tỉnh miền Nam Trung Bộ, gồm Phan Rang, Phan Thiết, Khánh Hòa, Đà
Lạt, Di Linh. Anh đóng đại bản doanh tại Ninh Thuận. Tại đây, quân Pháp đã tấn
công khu vực đóng quân của Hoàng Đình Giong. Hoàng Đình Giong cùng quân lính đã
chống trả quyết liệt. Vị Tư lệnh đáng yêu đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng
và nằm xuống mảnh đất Ninh Thuận, yên nghỉ trong giấc nghìn thu. Hôm đó là ngày
17-3-1947, thọ 43 tuổi (Có tài liệu viết Hoàng Đình Giong mất năm tháng
5-1947).
2. Đồng chí Hoàng Đình Giong là một chiến sĩ cộng sản kiên cường,
một vị tiền bối cách mạng xứng đáng, hoạt động cách mạng từ trước khi Đảng Cộng
sản Việt Nam được thành lập cho đến khi qua đời, vào khoảng gần 25 năm. Đồng
chí đã cống hiến cả tuổi thành xuân cho cách mạng và đã hy sinh anh dũng. Đó là
một con người yêu nước nồng nàn, lòng gang, dạ sắt trước lưỡi lê, họng súng của
kẻ thù, trước sau như một, trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của
Đảng, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và là người học trò xuất sắc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công,
Hoàng Đình Giong được Người đặt tên là Võ Văn Đức. Với tên chữ này mang nhiều ý
nghĩa, vừa có văn, vừa có võ, vừa có đức. Người nói: “Chú cầm quân ra chiến
trường, văn, võ đều cần, nhưng phải coi trọng cái đức của người cách mạng” (Theo
tài liệu của Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Cao Bằng, đề tháng 4-2014). Đồng chí
có tác phong gần dân, thân dân, cho nên được dân tin yêu, tin tưởng, đi dân
nhớ, ở dân thương; một vị chỉ huy tài ba, đi đến dâu xây dựng quân đội đến đấy,
có đạo đức, gan dạ, dũng cảm, có công lao to lớn xây dựng các lực lượng vũ
trang ở miền Tây Nam Bộ.
Có một số vấn đề cần được
làm rõ thêm về đồng chí Hoàng Đình Giong:
Một là: Cuốn sách đầu tiên viết về Hoàng Đình Giong của hai tác giả
Đàm Đức Vượng và Nguyễn Đình Nhơn, xuất bản cách đây 15 năm, chúng tôi có viết
đồng chí Hoàng Đình Giong sinh năm 1908. Lúc ấy, chúng tôi có về quê hương đồng
chí Hoàng Đình Giong tìm hiểu thân thế, sự nghiệp của đồng chí. Những người
biết đồng chí đều nói đồng chí tuổi Mậu Thân (1908). Sau khi sách được xuất
bản, chúng tôi lại sưu tầm được một số tài liệu, kể cả tài liệu của mật thám
Pháp, đối chiếu thấy rằng, đồng chí sinh năm 1904, cụ thể là ngày 1-6-1904
(Giáp Thìn), chứ không phải năm 1908.
Hai là: Đồng chí Hoàng Đình Giong là đại biểu dự Đại hội I của Đảng
họp ở Ma Cao năm 1935 và chắc chắn được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa I, nhưng đồng chí có được bầu làm Ủy viên Ban Thường vụ Trung
ương Đảng hay không, thì trong cuốn sách trên của chúng tôi chưa ghi. Nay qua
xác minh, đối chiếu với nhiều nguồn tài liệu cùng các cuốn hồi ký viết về Đại
hội I, thấy rằng, đồng chí Hoàng Đình Giong là một trong 5 Ủy viên Ban Thường
vụ khóa I gồm các đồng chí Lê Hồng Phong (Tổng Bí thư), Hà Huy Tập, Phùng Chí
Kiên, Hoàng Đình Giong, Đinh Tân (Đinh Thanh).
Tiểu sử Hoàng Đình Giong
còn một số khoảng trống, cần điền vào. Tôi đang tiếp tục làm công việc đó.
Báo cáo Khoa học của PGS,TS Đàm Đức Vượng, Viện trưởng Viện Khoa học Nghiên cứu Nhân tài Nhân lực (ISSTH) tại Hội thảo về đồng chí Hoàng Đình Giong, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức ngày 9-8-2018, tại Hà Nội.
** Nguyên Chánh Văn phòng, Vụ trưởng, Thư ký Khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương; nguyên Phó Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Viện trưởng Viện Khoa học Nghiên cứu Nhân Tài Nhân lực.
** Nguyên Chánh Văn phòng, Vụ trưởng, Thư ký Khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương; nguyên Phó Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Viện trưởng Viện Khoa học Nghiên cứu Nhân Tài Nhân lực.
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị
quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 1995, tập 6, tr. 155.