HOẠT ĐỘNG VÀ CỐNG HIẾN CỦA ĐỒNG CHÍ LƯƠNG KHÁNH THIỆN VỚI PHONG TRÀO CÁCH MẠNG CÁC TỈNH KHU B (BẮC KỲ)*
PGS,TS Đàm Đức Vượng**
Đồng chí Lương Khánh Thiện
Trong cuộc đời hoạt động
của đồng chí Lương Khánh Thiện, có thời gian được Đảng phân công về Phụ trách
Khu B. Đó là vào đầu năm 1940.
Khu B (Còn gọi là Liên Khu
B) lúc đó do Xứ ủy Bắc Kỳ thành lập để chỉ đạo phong trào cách mạng của các
tỉnh, thành phố Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An, Quảng Yên, Hồng Gai1.
Đây là một khu kinh tế rất quan trọng, cũng là khu tập trung nhiều công nhân
nhất.
Người phụ trách ban đầu
của Khu B là đồng chí Tô Hiệu, chứ không phải đồng chí Lương Khánh Thiện. Tháng
12-1939, đồng chí Tô Hiệu chủ trì cuộc hội nghị Ban Chỉ đạo Liên Khu B để
nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11-1939 (tức
Hội nghị Trung ương 6) và thực hiện
phương châm chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Đồng chí Tô Hiệu đã phân
tích tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt là tình hình vùng mỏ và đề ra
nhiệm vụ của Đảng bộ Khu Mỏ là phải khắc phục mọi khó khăn, xây dựng cơ sở ở
vùng nông thôn làm bàn đạp, kiên quyết phục hồi và phát triển cơ sở ở Hồng Gai
và Cẩm Phả; tiếp tục đẩy mạnh phong trào đấu tranh của công nhân để duy trì
những thắng lợi đã giành được.
Trong lúc này, Hải Phòng và Khu mỏ Hồng
Gai là hai yết hầu kinh tế của Bắc kỳ, là nơi phong trào phát triển mạnh, cho
nên nhà cầm quyền Đông Pháp đã tập trung lực lượng để đàn áp. Nhiều cơ sở cách
mạng bị vỡ. Nhiều đồng chí trong Xứ ủy, Thành ủy lần lượt vị sa vào lưới địch.
Đồng chí Tô Hiệu bị địch bắt vào tháng 12-1939.
Người thay thế phụ trách
Khu B sau khi Tô hiệu bị bắt chính là Lương Khánh Thiện. Lúc này, ngoài việc
phụ trách Khu B, Lương Khánh Thiện còn kiêm chức Bí thư thư Thành ủy Hải Phòng
và trước đó, đồng chí còn làm Bí thư Lâm thời Xứ ủy Bắc Kỳ và Bí thư Thành ủy
Hà Nội.
Trong thời gian Phụ trách
Khu B, đồng chí Lương Khánh Thiện đã làm được những việc sau đây:
Một là: Lương Khánh Thiện đã ra sức phục hồi các tổ chức đảng bị
địch phá vỡ và khủng bố. Lúc này, các tổ chức đảng ở Hải Phòng và khu mỏ thuộc
Khu B bị địch lùng sục ráo riết. Có chi bộ bị chúng bắt và giết hết, trở thành
chi bộ trắng. Đồng chí Lương Khánh Thiện kêu gọi mọi tổ chức và đảng viên trong
Khu B phải rút vào hoạt động bí mật, tuyệt đối không được làm lộ phong trào.
Thí dụ: Có hai đảng viên ở chung với nhau một nhà thì cũng không được bàn công
việc riêng với nhau, người nào làm việc người nấy. Nếu có một đảng viên bị bắt,
những đảng viên khác cùng ở trong tổ chức phải đề phòng ngay. Dời chỗ ở và thay
đổi hình dạng (quần áo). Trong phố hay chỗ không người không nên thì thào với
nhau có vẻ bí mật, không nên dùng từ “cách mạng” khi nói chuyện. Không được tò
mò đến công việc của đảng viên ở các tổ chức khác, cũng không được biết nhiều
đảng viên không phải ở tổ chức mình. Chi một mình bí thư là được liên lạc với
thượng cấp và biết các tổ chức ở trên, chỉ những người nào có trách nhiệm về
một việc gì mới được ủy quyền biết đến việc ấy. Các đảng viên ở cùng một chức
phải xem xét và phê bình nhau.
Bên cạnh việc củng cố tổ
chức là vấn đề phát triển đảng viên. Những chi bộ bị địch khủng bố trắng, Lương
Khánh Thiện yêu cầu phải khôi phục lại bằng cách điều động đảng viên ở nơi khác
về hoạt động, kiên quyết không để chi bộ trắng, mà phải nhuộm màu đỏ vào chi bộ
đó để tiếp tục hoạt động. Nhờ vậy, mà chẳng bao lâu, các tổ chức đảng của Khu B
được xốc lại nhanh chóng, đưa phong trào cách mạng tiếp tục tiến lên.
Hai là: Bên cạnh việc
phục hồi các tổ chức đảng, là việc tổ chức các đoàn thể quần chúng, để đưa
phong trào cách mạng của Khu B phát triển lên một tầm cao mới; bảo vệ các tổ
chức đảng và bảo vệ chính các đoàn thể quần chúng. Lúc này, Khu B có nhiều
thành phần giai cấp rất phức tạp, tiểu thương có, tư sản dân tộc có, tiểu tư
sản có, công nhân có, nông dân có, trí thức có,… Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với
Lương Khánh Thiện là phải có sự chọn lọc, bỏ tạp lấy tinh, đưa những quần chúng
tốt vào tổ chức quần chúng và qua phong tráo cách mạng, đưa những quần chúng ưu
tú vào Đảng.
Hình ảnh một người cộng sản
Lương Khánh Thiện mặc bộ quần áo xanh công nhân đã cũ với chiếc mũ lưỡi trai,
đi vào các xóm thợ và có lúc đi gây dựng cơ sở cách mạng ở nông thôn. Đồng chí
mặc bộ đồ nâu, đội chiếc nón rách, đi về những nơi ngõ ngách của cuộc sống nông
thôn đã làm nhiều người cảm động.
Chính sách của Đảng lúc
này là mở rộng Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương, thay cho Mặt trận Dân chủ
Đông Dương, bằng việc liên hiệp tất cả các dân tộc Đông Dương, tất cả các giai
cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế muốn giải phóng cho dân tộc để tranh
đấu chống đế quốc chiến tranh, chống xâm lược phát xít, đánh đổ đế quốc Pháp,
vua chúa bản xứ và tất cả tay sai của đế quốc, đòi hòa bình, cơm áo, vươn tới
nền độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương với quyền dân tộc tự quyết. Đồng
chí Lương Khánh Thiện quán triệt tinh thần này, cho nên đã thành công trong
công tác vận động quần chúng.
Ba là: Đồng chí Lương Khánh Thiện thực hiện “kế liên hoàn” trong
đấu tranh cách mạng, có nghĩa là liên kết các tỉnh của Khu B với nhau để thực
hiện mục tiêu đoàn kết và đấu tranh. Quan điểm của đồng chí là Khu B gần kề địa
lý, cho nên liên kết trong đấu tranh là một việc nên làm và cần làm. Nếu đấu
tranh riêng rẽ từng tỉnh một, thì có khác gì như chiếc đũa đơn độc dễ bị kẻ thù
xâm lược bẻ gãy. Vì vậy, liên hành các tinh Khu B sẽ như một nắm đũa, không thể
bẻ gãy. Đoàn kết bao giờ cũng tạo nên sức mạnh trong đấu tranh. Ông đã đi đến
các tỉnh thuộc Khu B bàn kế hợp lòng đấu tranh chống áp bức giai cấp và áp bức
dân tộc.
Bốn là: Trên cơ sở kiện toàn tổ chức, đồng chí Lương Khánh Thiện đã
quán triệt sâu sắc trong các tổ chức đảng ở Khu B thực hiện Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 6 của Đảng và Nghị quyết của Xứ ủy Bắc Kỳ, làm rõ mục đích và tính chất
của Chiến tranh thế giới lần thứ hai; vấn đề vị trí Đông Dương trong cuộc đế
quốc chiến tranh; chính sách cai trị của Pháp ở Đông Dương; làm rõ tình hình và
thái độ của các giai cấp xã hội ở Đông Dương như giai cấp địa chủ, giai cấp tư
sản bản xứ, giai cấp tiểu tư sản thành thị, giai cấp nông dân, giai cấp thợ
thuyền; làm rõ các đảng phái và xu hướng chính trị ở Đông Dương, cụ thể là
Chính phủ Nam Triều Bảo Đại, Phe 18842 ở Trung Kỳ, Phe Cường Để thân
Nhật; Đảng Lập hiến, Đảng Dân chủ, Phái Trực trị3, Đảng Cộng sản
Đông Dương. Trong các thế lực chính trị lúc bấy giờ ở Đông Dương, Đảng Cộng sản
Đông Dương là mạnh hơn cả. “Trên võ đài chính trị trong xứ, Đảng Cộng sản Đông
Dương là Đảng có thế lực mạnh nhất, có cơ sở vững vàng nhất trong quần chúng, chiến
đấu cương quyết hơn hết để bệnh vực quyền lợi cho dân chúng và tranh đấu đòi tự
do, độc lập cho dân tộc. Nhờ vậy, Đảng Cộng sản Đông Dương đã chiếm vai trò
lãnh đạo trong phong trào cách mạng Đông Dương…”4.
Lương Khánh Thiện hiểu rõ
mục tiêu của cách mạng lúc này là đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bản xứ và tất
cả bọn tay sai của đế quốc phản bội lại lợi ích dân tộc và ông đã mang tinh
thần đó vào trong việc xây dựng cơ sở cách mạng ở các tỉnh Kiến An, Hải Dương,
Hải Phòng, Hưng Yên, Quảng Yên, Hồng Gai,…
Sở dĩ Lương Khánh Thiện
chủ trương quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 vào trong các tổ chức đảng
ở Khu B, mà trước đó, Tô Hiệu đã làm một phần, vì nhằm để củng cố niềm tin của
các tổ chức đảng và đảng viên vào sự lãnh đạo của Trung ương. Lúc này, trước sự
khủng bố ác liệt của địch, một số đảng viên trong Khu B hoang mang, dao động.
Nhưng sau khi được quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, thì niềm tin
của các tổ chức đảng và đảng viên Khu B được củng cố một bước vững chắc.
Tiếp theo Hội nghị Trung ương 6, trong thời
gian Lương Khánh Thiện hoạt động ở Khu B, thì Hội nghị Trung ương 7 họp từ ngày
6 đến ngày 9-11-1940, tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Tham dự Hội nghị có các
đồng chí Trường Chính, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phan Đăng Lưu, Trần Đăng
Ninh,… Trong Hội nghị này, đồng chí Trường Chính được cử làm quyền Tổng Bí thư
của Đảng. Đến Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941, họp tại Cao Bằng), đồng chí
Trường Chính được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương. Đồng chí Lương Khánh Thiện tuy không dự Hội nghị Trung ương 7,
nhưng sau khi có Nghị quyết của Hội nghị, đồng chí đã tổ chức học tập Nghị
quyết rất có kết quả. Lúc này, Nhật đã nhảy vào Đông Dương từ tháng 9-1940, bên
cạnh đó là Pháp vẫn đang thống trị Đông Dương, đẩy nhân dân Đông Dương vào cảnh
“một cổ hai tròng”.
Hội nghị đã phân tích một
cách nghiêm túc tình hình thế giới; phong trào cách mạng và cuộc vận động chống
đế quốc chiến tranh. Ở các xứ thuộc địa và bán thuộc địa, trong cuộc chiến
tranh này, các thế lực xâm lược không thể dùng những câu hứa hẹn “tự trị”, “độc
lập” lừa dối nhân dân thuộc địa đi chết cho “mẫu quốc” được nữa. Bởi thế, Chiến
tranh thế giới thứ hai mới nổ ra hơn một năm nay, mà phong trào đấu tranh đòi
độc lập, tự do, chống chiến tranh xâm lược đã tiến bộ rất nhiều ở các nước
thuộc địa.
Về tình hình Đông Dương,
Nghị quyết đã phân tích sâu sắc về sự rối loạn và khủng hoảng kinh tế Đông
Dương. Số thợ thuyền thất nghiệp ngày một thêm nhiều. Dân cày làm ăn không được
phát đạt. Tiểu thương, tiểu chủ bị phá sản, sa sút. Nhiều nhà tư sản, nhà
thương mại, nhà kỹ nghệ cũng bị phá sản lây, hoặc đang sống gượng, không có
triển vọng. Trong khi đó, các thế lực đế quốc lại ra sức đè đầu cưỡi cổ nhân
dân Đông Dương để vơ vét của cải và làm giàu mang về chính quốc.
Về chính trị, chúng đã
phát xít hóa bộ máy thống trị và đàn áp dân chúng, thực hiện chính sách phỉnh
phờ, vơ vét của cải, bóp cổ dân chúng lấy tiền.
Về tình hình Đảng và các
hội quần chúng, Nghị quyết đã phân tích sâu sắc về số lượng và chất lương của
các tổ chức đảng, đảng viên, số lượng và chất lượng các tổ chức quần chúng.
Trên cơ sở phân tích tình
hình trên, Nghị quyết xác định cách mạng Đông Dương vẫn là cách mạng tư sản dân
quyền, đây chính là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vì nhiệm vụ của nó không
phải là chỉ đánh đuổi đế quốc chủ nghĩa, mà nó còn tiến tới thành lập chính phủ
dân chủ cho nhân dân tiến tới thực hiện cách mạng xã hội (tức cách mạng xã hội
xã hội chủ nghĩa). Như vậy, cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn này phải
bao gồm cả hai tính chất phản đế và thổ địa. “Cuộc cách mạng gồm hai tính chất
phản đế và thổ địa ấy gọi là cách mạng tư sản dân quyền (révolution
democratique bourgeoise)5. Quyền lãnh đạo cách mạng tư sản dân quyền
là giai cấp công nhân với đội tiền phong là Đảng Cộng sản Đông Dương.
Để thực hiện cuộc cách
mạng này phải thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế.
Đó là những nội dung cơ
bản của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 của Đảng, cùng với tài liệu “Tự chỉ
trích” của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, mà đồng chí Lương Khánh Thiện đã quán
triệt trong các tổ chức đảng và đảng viên tại khu B. Đồng chí Lương Khánh Thiện
đã trực tiếp phổ biến Nghị quyết tới các tổ chức cơ sở đảng của Khu B và kêu gọi
các tổ chức đảng và đảng viên sinh hoạt đảng tại Khu B phải thực hiện Nghị
quyết cho tốt.
Lúc này, tuy chưa có Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 8 về khởi nghĩa vũ trang, những Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 7 đã dọn đường để chuẩn bị đi đến khởi nghĩa vũ trang.
Trong thời gian Lương
Khánh Thiện Phụ trách Khu B, phong trào cách mạng ở Khu B đã phát triển đi vào
chiều sâu. Nhiều phong trào cách mạng nổi lên ở
nhiều nơi trong Khu B, như Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Yên,
Kiến An, Khu mỏ Hồng Gai,…
Lương Khánh Thiện Phụ
trách Khu B từ đầu năm 1940 đến năm 1941 thì bị địch bắt lại lần thứ hai và bị
xử bắn vào ngày 1-9-1941, tại Kiến An. Năm ấy, ông 38 tuổi.
Thời gian Phụ trách Khu B
tuy không nhiều, nhưng đồng chí Lương Khánh Thiện đã làm được nhiều việc có ích
cho phong trào ở các tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Hưng yên, Kiến An, Quảng Yên,
Hồng Gai,... Việc làm của đồng chí Lương Khánh Thiện ở Khu B đã được lịch sử
ghi nhận.
------
*Báo
cáo Khoa học tại Hội thảo kỷ niệm 115 ngày sinh đồng chí Lương Khánh Thiện, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương,
Tỉnh ủy Hà Nam tổ chức, ngày 9-9-2018.
**
Hội đồng Lý luận Trung ương.
1.Có
tài liệu viết Khu B bao gồm cả Móng Cái, Cầm Phả.
2.Phe
1884 tức là phe Khôi, Diệm muốn dựa trên nền tảng pháp luật yêu cầu đế quóc
Pháp thi hành đúng Hiệp ước 1884 tăng quyền cho bọn vua quan bản xứ.
3.
Phái trực trị ở Bắc Kỳ do Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Huy Lục cầm đầu.
4.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng
Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 527.
5.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng
Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 67..