Nguồn nhân lực: Con người là tiền đề của nền kinh tế năng động
Trước khi nói về vai trò của con người trong một nền kinh tế năng động, phải nói đến tính năng động của nền kinh tế. Tính năng động của nền kinh tế quan trọng như thế nào trong điều kiện cạnh tranh, có lẽ không cần nhắc lại. Điều này được phản ánh phần nào trong thái độ của xã hội khi sử dụng tính từ "năng động" để nói về các doanh nhân giỏi hay trong tần số xuất hiện thường xuyên trên báo chí của cụm từ "chuyển đổi cơ cấu kinh tế". Tuy nhiên, thế nào là một nền kinh tế năng động và làm sao để đạt được tính năng động của nền kinh tế lại chưa được nghiên cứu phân tích thấu đáo. Hơn thế nữa, theo chúng tôi, nhận thức của chúng ta về vấn đề này còn nhiều điểm chưa chính xác. Chẳng hạn, làm sao có thể coi việc năm nào chúng ta cũng sản xuất gạo và bán gạo với giá cả và chất lượng giống nhau như là dấu hiệu năng động của nền kinh tế?
Một nền kinh tế có thể coi là năng động nếu nó dễ thích ứng với đòi hỏi của cơ chế thị trường. Đó là dấu hiệu hình thức. Nhưng, nói như thế vẫn chưa đủ. Một nền kinh tế năng động, theo chúng tôi, có ba nhân tố chính sau đây:
Một là, các bộ phận cấu thành, hay cơ cấu, của nó dễ dịch chuyển để thích ứng với các đòi hỏi của cơ chế thị trường.
Tại sao xã hội chúng ta chưa phát triển nhanh như chúng ta mong muốn? Tại sao những kế hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh tế của chúng ta vẫn chưa hoàn thành đúng yêu cầu? Trong nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân nằm ngay ở quan niệm của chúng ta. Chẳng hạn, chúng ta luôn cho rằng, chỉ những người sản xuất mới vinh quang, bởi vì họ làm ra của cải vật chất. Nhưng, nếu sản xuất theo lối biến các nguyên liệu chất lượng tốt, nhập khẩu bằng ngoại tệ mạnh thành loại hàng hoá không bán được, cũng có nghĩa là phế phẩm, thì đó là thứ sản xuất có hại, nếu không muốn nói là phá hoại. Chúng ta không nên nhầm rằng, thành phẩm là những gì dùng được. Trong cơ chế thị trường, chỉ có những thứ gì bán được mới được gọi là thành phẩm.
Nếu một nền kinh tế không có khả năng thay đổi cấu trúc, nó không thể có hiệu quả, không thể được coi là năng động. Theo nghĩa đó, trên một số khía cạnh, chúng ta có thể nói rằng nền kinh tế nước ta hiện nay thực chất mới chỉ là sự pha trộn giữa nền kinh tế tự cung tự cấp với một số yếu tố của nền kinh tế thị trường.
Hai là, tính dễ lưu chuyển của lực lượng lao động. Nhân tố này liên hệ chặt chẽ với nhân tố thứ nhất, bởi vì muốn dịch chuyển cơ cấu kinh tế thì trước hết phải dịch chuyển lao động.
Sự lưu chuyển lực lượng lao động phải diễn ra tương đối tự do. Nó không thể bị khoá cứng bởi các tổ chức cũng như bởi sự khu trú mang tính hành chính hay tâm lý của lực lượng lao động trong các vùng sản xuất khác nhau. Tính chất dễ lưu chuyển ấy phải là và phải được xem là tính chất tự nhiên của lực lượng lao động. Lâu nay chúng ta hay kêu ca về dòng di chuyển ồ ạt của lao động nông thôn ra thành phố mà không biết rằng, sự luân chuyển lao động một cách tự do và linh hoạt chính là thuộc tính của nền kinh tế năng động. Sự lưu chuyển ấy sẽ bù đắp, lấp đầy các lỗ hổng về lực lượng lao động, và bằng cách ấy điều chỉnh sự phân bố lực lượng lao động. Đó là quy luật và cũng chính là dấu hiệu của nền kinh tế năng động.
Thực ra, nhìn sâu hơn nữa, sự lưu chuyển của lực lượng lao động không chỉ là dịch chuyển về mặt địa lý, mà trong thời đại của chúng ta, một nền kinh tế năng động còn đòi hỏi phải có một lực lượng lao động cực kỳ năng động cả về kinh nghiệm sản xuất lẫn trí tuệ khoa học và công nghệ. Bản chất của nền kinh tế năng động là tạo ra sự phát triển, dựa trên sự thải hồi những kinh nghiệm không còn phù hợp với đòi hỏi của thị trường lao động.
Ba là, cách thức tập hợp lao động và tổ chức sản xuất. Cần phải khẳng định rằng, hiện nay cách thức tập hợp lao động và tổ chức sản xuất ở nước ta cũng như ở những nước tương tự như chúng ta nói chung còn rất lạc hậu. Nhưng, cũng phải nói thêm rằng, đó không phải là vấn đề của riêng các nước nghèo. Người Nhật Bản chẳng hạn, trước đây thường tự hào về hiện tượng có tới ba, bốn đời của một gia đình cùng làm trong một xí nghiệp. Họ cho rằng, nhờ vậy có thể tận dụng được những kinh nghiệm và truyền thống lao động có tính chất gia đình. Ngày nay, trong xu hướng toàn cầu hoá, người Nhật mới nhận thấy đó là sai lầm. Bởi vì, sự hoà hợp giữa các lực lượng lao động cùng những kinh nghiệm khác nhau trên thế giới và trong nước sẽ biến nông dân thành những "công nhân công nghiệp", xoá bỏ những mối liên hệ ngàn đời của người lao động với gia đình, làng xóm, quê hương... Một khi còn bị trói buộc, kể cả về văn hoá và tâm lý, người lao động sẽ không thể đáp ứng được những đòi hỏi của nền sản xuất mới.
Cách thức tập hợp lao động của chúng ta hiện nay vẫn theo kiểu bao cấp và phải nói rằng, đó là một trong những yếu tố đổi mới chậm nhất trong nền kinh tế. Vì định kiến, người lao động đôi khi lạm dụng quyền lực chính trị, tạo ra sự hợp tác không đầy đủ và không hiệu quả với giới sử dụng lao động. Ngược lại, giới sử dụng lao động cũng nhiều khi có thái độ, hành vi không đúng mực với người lao động. Nhưng, giới chủ không phải bao giờ cũng là giới bóc lột. Giới chủ trước hết là những người tập hợp và tổ chức lực lượng lao động theo những dự án kinh tế khác nhau. Muốn dự án thành công, dù trên phương diện lý thuyết hay thực tế, cả hai bên đều dựa trên cơ sở quan hệ hợp tác bền vững và có trách nhiệm với nhau.
Như vậy, cả ba nhân tố đều gắn liền với con người. Vì lẽ đó, để xây dựng một nền kinh tế năng động, chúng ta không còn con đường nào khác là phải bắt đầu từ chính con người - con người vừa là mục đích, vừa là người tổ chức và thực hiện các quá trình phát triển.
Trước hết, chúng tôi muốn nói đến giáo dục. Nếu xem sức lao động là hàng hoá thì giáo dục là một ngành sản xuất hàng hoá ấy. Vì vậy, cần phải tạo ra sự cạnh tranh trong nội bộ ngành giáo dục theo những phương thức thích hợp với nền kinh tế thị trường.
Đã có một nửa thế kỷ, thậm chí hàng thế kỷ chúng ta phải đấu tranh để giành độc lập dân tộc. Chúng ta buộc phải đối đầu với các cường quốc về kinh tế, chính trị và quân sự. Vì thế, chúng ta cũng buộc phải dạy dỗ làm sao để con người chúng ta có đủ sức đề kháng cần thiết, nhằm tập hợp toàn dân tộc giải quyết các vấn đề của dân tộc vào thời điểm ấy. Bây giờ tình thế đã thay đổi, nhận thức của con người cũng đã thay đổi, vì thế chương trình giáo dục cũng phải thay đổi. Nếu chương trình giáo dục vẫn chậm được cải thiện, vẫn không đặt lên hàng đầu mục tiêu đào tạo ra người lao động theo yêu cầu của cuộc sống, chứ không phải theo những yêu cầu ngắn hạn hoặc giáo điều, chúng ta sẽ không thể nâng cao được sức cạnh tranh của dân tộc.
Nói về con người, chúng ta không thể bỏ qua đội ngũ trí thức. Trí thức bao giờ cũng là chiếc ăng-ten, là bộ não của lực lượng lao động. Thế nhưng, ở nhiều quốc gia, đội ngũ trí thức đang có vấn đề. Đội ngũ trí thức khoa học công nghệ thì mải mê đuổi theo những thành tích khoa học cá nhân lẻ tẻ mà quên mất phải làm thế nào phổ biến nhanh chóng và kịp thời những phát hiện của họ để tạo ra chất lượng tri thức cho lực lượng lao động. Do vậy, giới trí thức nhiều khi đứng ngoài, hay chậm chân so với cuộc sống và sự phát triển đất nước.
Chúng ta có một nửa thế kỷ hình thành đội ngũ trí thức mới. Nhưng vì nhiều nguyên nhân, vẫn còn một bộ phận trí thức mang tính phụ hoạ. Một số người phạm phải sai lầm lớn là chỉ chăm chú vào việc sử dụng từ ngữ, một số khác quanh quẩn với những khái niệm cũ kỹ, lỗi thời, thậm chí lệch lạc, vừa xa rời, vừa không cần thiết cho nhân dân, nhất là nhân dân lao động.
Tất cả những gì chúng ta trình bày ở trên không thể thực hiện được nếu không có vai trò của Chính phủ. Muốn có một nền kinh tế năng động phải có một Chính phủ năng động. Ở đây, cần quan niệm một cách đúng đắn rằng, Chính phủ là cơ quan hành pháp, có chức năng giám sát, tổ chức và cung cấp dịch vụ quản lý xã hội để xã hội phát triển ổn định. Vì vậy, một chính phủ tốt phải có đủ năng động, đủ hiểu biết, đủ khả năng tổ chức xã hội tiếp cận thông tin, từ đó dễ dàng lựa chọn một hướng đi đúng đắn. Chính phủ có chức năng định hướng, và thước đo tính đúng đắn của Chính phủ là sự cải thiện môi trường kinh doanh, sự mở rộng quyền tự do của người dân, cuối cùng sẽ dẫn đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Cuối cùng, để một nền kinh tế trở nên năng động, chúng ta phải có những điều kiện hạ tầng thích ứng, trước hết là trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Hệ thống này phải được thay đổi để thực sự là hệ tuần hoàn lành mạnh của đời sống xã hội. Một nền kinh tế năng động phải có một đội ngũ cung cấp dịch vụ có thể thích ứng với các thay đổi tinh tế của đời sống kinh tế. Chúng ta đã chấp nhận dịch vụ như là một phần hữu cơ của đời sống kinh tế, nhưng chúng ta vẫn còn đang chậm trễ trong việc xây dựng một cơ sở hạ tầng các dịch vụ có thể để bôi trơn, thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Tuy nhiên, các điều kiện hạ tầng chỉ là một phần của vấn đề. Mọi quá trình kinh tế - xã hội đều là kết quả của sự tương tác giữ lực lượng lao động với lực lượng tổ chức lao động trong một môi trường nhất định. Một môi trường linh hoạt, cho phép các quá trình tương tác cũng như sự luân chuyển của các nguồn lực diễn ra một cách tự do sẽ đóng vai trò không chỉ là bối cảnh mà còn là chất xúc tác cho sự phát triển. Khái niệm dân chủ mà Đảng ta đưa ra trong Đại hội IX vừa qua chắc chắn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành một môi trường như vậy. Ngược lại, một môi trường bị phân rã bởi những lợi ích cục bộ, nhất thời hoặc tự bó hẹp do định kiến, sẽ là vật cản đối với quá trình phát triển. Vì thế, cần phải khẳng định rằng không thể xây dựng đời sống kinh tế chuyên nghiệp mà chưa chuyên nghiệp hoá đời sống xã hội.
Nguyễn Trần Bạt