VẤN ĐỀ TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY (Bài 26)
PGS,TS Đàm Đức Vượng
1. Gần đây và hiện nay, trên các trang mạng tung ra nhiều bài viết,
bài nói về Việt Nam sắp có đổi tiền và khuyên mọi người hãy rút ngay tiền gửi
ngân hàng vì đã có luật phá sản ngân hàng và có hàng loạt ngân hàng ở Việt Nam
sắp phá sản, mà sau khi ngân hàng tuyên bố phá sản, người gửi tiền chỉ được
lĩnh lại tối đa chỉ là 75 triệu đồng, mặc dù trong sổ tiết kiệm của anh ta có
hàng tỷ, hàng chục tỷ,… Cứ vài tháng, họ lại tung lên trên các trang mạng về
Việt Nam sắp đổi tiền. Đây là một thủ đoạn đánh vào nền tài chính – tiền tệ
nước nhà, đánh vào nền kinh tế quốc dân và đánh vào lòng người một cách ác ý,
gây tâm lý sốc, hoang mang trong dư luận xã hội. Họ biện luận rằng, mệnh giá
của đồng Việt Nam quá cao so với đồng đô la Mỹ (1 USD = 22 hoặc 23 nghìn đồng
Việt Nam), nên phải đổi tiền? Lần này, họ tung lên nhiều bài hơn về đổi tiền,
quy mô hơn, gây hoang mang dư luận xã hội rất lớn.
Tôi nghĩ rằng, Việt Nam
chưa đến lúc phải đổi tiền, vì đồng tiền Việt Nam hiện nay vẫn ổn định tương
đối, giá cả, lạm phát không tăng, kinh tế vẫn đang phát triển, không khủng
hoảng kinh tế, thì đổi tiền làm gì?
Trên thế giới hiện nay có
một số nước mệnh giá đồng tiền của họ cũng cao so với đồng đô la Mỹ, thậm chí
còn cao hơn Việt Nam nhiều lần, mà họ có nghĩ đến chuyện đổi tiền đâu, mà kinh
tế đất nước của họ vẫn phát triển không ngừng. Chúng ta cũng không nên quá lệ
thuộc vào đồng đô la Mỹ, vì Việt Nam tiêu tiền Việt Nam là chủ yếu. Nhờ có đồng
tiền Việt Nam hiện hành mà kinh tế đất nước, về cơ bản, vẫn ổn định và phát
triển, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao.
Theo lý thuyết, khi nghĩ
đến chuyện đổi tiền là lúc đó đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế, nền sản
xuất bị giảm sút tuyệt đối, vốn đầu tư cơ bản bị rút bớt, nạn thất nghiệp phát
triển, các cơ sở sản xuất bị phá sản, lạm phát tăng 3 con số và những biến động
khác trong nền kinh tế.
2. Nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị học, thì tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc biệt,
thể hiện sự giá trị của cải xã hội, đảm nhận vai trò vật ngang giá chung khi
trao đổi hàng hóa, là sản phẩm của sự phát triển trao đổi của các hình thái kinh tế giá trị. Cùng với sự xuất hiện
của tiền tệ, toàn bộ thế giới hàng hóa được chia thành hai cực: hàng hóa và
tiền tệ. Tiền tệ biểu hiện lao động xã hội, chứa dựng trong tiền tệ và biểu
hiện quan hệ xã hội giữa con người với con người. Tiền tệ là sự biểu hiện trao
đổi bằng hàng hóa. Với sự ra đời của tiền tệ, thế giới hàng hóa có hình thức
đặc biệt, biểu hiện giá trị của mình. Vì vậy, tiền tệ là thước đo lao động xã
hội, thành hàng hóa và từ hàng hóa mà thành tiền, rồi từ tiền lại biến thành
hàng hóa. Lao động của con người còn được thể hiện bằng khai thác vàng và từ
vàng đã được khai thác, trở thành tiền và từ tiền có thể mua các hàng hóa khác.
Nhờ tiền tệ, người ta tính toán một cách gián tiếp hao phí lao động xã hội chứa
đựng trong hàng hóa.
Bản chất của tiền tệ thể
hiện ở chức năng thước đo giá trị, thể hiện ở giá trị hàng hóa với tư cách là
những đại lượng cùng tên, có chất lượng như nhau và so sánh về mặt lượng. Điều
này thực hiện được là nhờ so sánh giá trị của tất cả các hàng hóa với vàng.
Vàng thực hiện chức năng thước đo giá trị của hàng hóa, nên có mối quan hệ rất
chặt chẽ với tiền tệ. Vàng chẳng qua cũng chỉ là một loại tiền tệ ngang giá. Để
xác định giá trị của hàng hóa (sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa), cần
phải so sánh tiền với một số vàng nhất định. Khối lượng vàng nhất định do nhà
nước quy định, có thể dùng làm đơn vị tiền tệ, gọi là tiêu chuẩn giá cả. Trong
chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ thực hiện vai trò vật môi giới trong
lưu thông hàng hóa, nhưng chúng phải là tiền thật. Tiền tệ thực hiện chức năng
này chỉ trong chốc lát, vì nó liên tục chuyển từ tay người này sang tay người
khác, thông qua hàng hóa. Chức năng của tiền tệ làm phương tiện lưu thông là sự
phát triển hơn nữa của nền sản xuất hàng hóa, thể hiện ở sự mua và bán cả về
thời gian lẫn không gian. Chức năng của tiền tệ còn có ý nghĩa quan trọng đối
với việc điều tiết lưu thông tiền tệ. Nếu trong lưu thông không có đủ vàng, thì
vàng sẽ phải ra khỏi nơi cất trữ, còn nếu có nhiều vàng, thì vàng sẽ đi vào lưu
thông. Tiền tệ còn thực hiện chức năng là phương tiện thanh toán. Vì mỗi nước
có những đồng tiền khác nhau, nên chức năng tiền tệ thế giới được thực hiện
bằng vàng hoặc sự trao đổi giữa tiền của nước này với tiền của nước khác. Tiền
tệ thế giới chính là vàng. Các loại tiền bằng kim loại hoặc bằng giấy được lưu
hành trong nước do pháp luật quy định. Trong lịch sử có nhiều loại hình chế độ
tiền tệ mà chủ yếu là chế độ đơn bản vị và chế độ song bản vị. Chế độ
đơn bản vị là chế độ chỉ lấy một thứ hàng hóa tiền tệ (vàng hay bạc) làm vật
ngang giá chung. Chế độ song bản vị là chế độ tiền tệ lấy hai thứ kim loại tiền
tệ là vàng hay bạc làm thước đo giá trị. Tiền giấy chẳng qua chỉ là dấu hiệu
của vàng, còn vàng đóng vai trò vật ngang giá chung, nên tiền giấy chỉ thay thế
vàng trong chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Điều này
có cái lợi, nhưng cũng có cái hại là tạo cơ sở cho nạn lạm phát kinh niên, nạn
phá giá tiền tệ thường xuyên và các cuộc khủng hoảng tiền tệ triền miên. Tiền
tệ chỉ có thể ổn định tương đối khi nền kinh tế của nước đó cũng ổn định và
phát triển, do tính ưu việt của hệ thống kinh tế nước đó. Cơ sở bảo đảm tính ổn
định của tiền tệ là khối lượng hàng hóa đưa vào lưu thông cũng ổn định và dồi
dào. Trữ lượng vàng hiện có của mỗi nước đóng vai trò nhất định trong việc bảo
đảm tính ổn định của tiền tệ. Vào những năm 70 thế kỷ XIX, phần lớn các nước
đều lấy vàng làm cơ sở tiền tệ. Khi đó, được đúc tiền vàng, đổi tiền giấy thành
tiền vàng và vàng được vận chuyển từ nước này sang nước khác. Khi tiền giấy không
đổi được vàng, thì tiền giấy có thể bị mất giá và tiền giấy bị lạm phát.
Mỗi nước đều hình thành
chế độ tiền tệ. Đó là hình thức lưu thông tiền tệ trong nước được pháp luật ghi
nhận. Chế độ tiền tệ bao gồm: Hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá chung; phương
tiện lưu thông và phương tiện thanh toán đã được hợp pháp hóa bằng tiền kim
loại, tiền giấy, tiền tín dụng, giấy bạc ngân hàng; thể lệ phát hành giấy bạc
ngân hàng và giấy kho bạc (tiền giấy) trong lưu thông. Từ Chiến tranh thế giới
thứ nhất (1914-1918), phần lớn các nước lớn chuyển sang chế độ tiền giấy, trong
đó, vàng thực hiện chức năng thước đo giá trị, còn giấy bạc ngân hàng và tiền
giấy thực hiện chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Việc
điều tiết kế hoạch lưu thông tiền tệ dựa trên cơ sở lưu chuyển hàng hóa. Trên
cơ sở chủ trương lưu thông tiền tệ do ngân hàng phát hành, tức là quỹ tiền mặt,
chính phủ quy định tổng số tiền tối đa đưa vào lưu thông tiền tệ hoặc tổng số
tiền thu hồi từ lưu thông. Sở dĩ số lượng tiền tệ trong lưu thông phù hợp với
nhu cầu của lưu chuyển hàng hóa là do phần lớn khối lượng hàng hóa tập trung
đưa vào lưu thông cùng với trữ lượng vàng là sự bảo đảm tính ổn định của tiền
tệ. Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không có khủng hoảng kinh tế sản xuất
thừa; điều đó loại trừ khả năng gây ra các cuộc khủng hoảng tiền tệ. Sự ổn định
của lưu thông tiền tệ còn là do ngân sách nhà nước không bị thiếu hụt và nhà
nước giữ độc quyền về tiền tệ. Sự độc quyền nhà nước về tiền tệ bảo vệ cho lưu
thông tiền tệ tránh khỏi tác động tự phát, tránh được nạn lạm phát và các cuộc
khủng hoảng tiền tệ.
3. Tại Việt Nam, nhìn lại các vụ đổi tiền từ sau ngày miền Bắc được
giải phóng (1954) đến khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975) và
những năm sau khi đất nước thống nhất, đã diễn ra những mặt tích cực và những
mặt tiêu cực đan xen nhau. Cũng phải nói rằng, chúng ta chưa có kinh nghiệm về
vấn đề quản lý tài chính – tiền tệ và quản lý ngân hàng, nên khi thực hiện các
vụ đổi tiền và tiêu tiền đôi lúc còn lúng túng.
Ngày 12-2-1959, Ban Bí thư
khóa II ra Chỉ thị số 126-CT/TW, về việc lãnh đạo công tác phát hành tiền ngân
hàng mới, thay đổi đơn vị tiền tệ và thu hồi tiền ngân hàng cũ. Ban Bí thư xét
thấy các loại giấy bạc hiện hành lúc ấy diện ngạch quá lớn, không thích hợp với
yêu cầu lưu thông hàng hóa, phát triển kinh tế, cho nên Trung ương đã quyết
định việc phát hành tiền ngân hàng mới, thay cho tiền ngân hàng cũ. Chủ trương
này nhằm nâng cao giá trị của đồng tiền trong nước và trên thế giới, đẩy mạnh
hơn nữa giao lưu hàng hóa và phát triển sản xuất.
Về mức đổi chênh lệch: 1
đồng tiền mới ăn 1 nghìn đồng tiền cũ. Để ngăn chặn những hoạt động đầu cơ trở
ngại cho việc cải tạo và phát triển kinh tế, đối với những người có nhiều tiền,
khi thu đổi chỉ trả tiền mặt đến mức 2 triệu đồng ngân hàng cũ cho mỗi hộ, còn
lại bao nhiêu thì trả bằng séc ngân hàng.
Ngày 23-2-1959, Ban Bí thư
khóa II ra Chỉ thị số 130-CT/TW, bổ sung Chỉ thị 126-CT/TW, ngày 12-2-1959, về
việc lãnh đạo công tác phát hành tiền ngân hàng mới, thay đổi đơn vị tiền tệ và
thu đổi tiền ngân hàng cũ, coi đó là “trung tâm đột xuất” trong một thời gian
ngắn theo kế hoạch đã định.
Sau khi đất nước thống
nhất vào năm 1975, đến năm 1985, Việt Nam đã diễn ra ba lần đổi tiền:
Lần thứ nhất diễn ra vào ngày 2-9-1975. Tại miền Nam, đổi tiền của
chính quyền Sài Gòn cũ bằng tiền giải phóng mới theo tỷ giá 500 đồng tiền cũ
đổi lấy 1 đồng tiền mới giải phóng. Có phát hành thêm các loại tiền: 10 xu, 20
xu, 50 xu và 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 50 đồng.
Lần thứ hai diễn ra vào ngày 3-5-1978, để thống nhất tiền tệ trong
cả nước. Theo Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 1-4-1978 của Bộ Chính trị khóa IV:
“Về việc phát hành tiền ngân hàng mới, thu hồi tiền ngân hàng cũ ở hai miền,
thống nhất tiền tệ trong cả nước”.
Về tỷ lệ thu đổi, Bộ Chính
trị quyết định 1 đồng tiền ngân hàng cũ đổi băng 1 đồng tiền ngân hàng mới; 0,8
đồng ngân hàng cũ ở miền Nam đổi bằng 1 đồng ngân hàng mới.
Về mức đổi, Nghị quyết chỉ
rõ mỗi hộ độc thân được đổi ngay đến mức tối đa ở thành thị là 100 đồng, ở nông
thôn là 50 đồng. Mỗi hộ gia đình có 2 nhân khẩu được đổi ngay ở thành thị mức
tối đa là 200 đồng, ở nông thôn là 100 đồng. Mỗi hộ gia đình có 3 nhân khẩu trở
lên được đổi thêm cho mỗi nhân khẩu ở thành thị là 50 đồng, ở nông thôn là 30
đồng. Những hộ nhiều nhân khẩu nhất cũng chỉ đổi được ngay đến mức tối đa ở
thành thị là 500 đồng, ở nông thôn là 300 đồng. Ngoài số tiền mặt được đổi
ngay, số tiền còn lại được ghi vào sổ tiết kiệm hay tiền gửi và được rút ra để
tiêu dùng và sản xuất kinh doanh theo chính sách quy định.
Thực hiện Nghị quyết số
08, tại miền Bắc, đổi từ tiền cũ sang tiền mới theo tỷ giá 1 đồng tiền cũ đổi
lấy 1 đồng tiền mới thống nhất. Tại miền Nam, đổi tiền giải phóng sang tiền
thống nhất theo tỷ giá 1 đồng tiền giải phóng đổi được 8 hào tiền thống nhất.
Có phát hành thêm các loại tiền 5 hào, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30
đồng, 50 đồng, 100 đồng.
Lần thứ ba diễn ra vào ngày 4-9-1985, đổi tiền cũ (tiêu tiền thống
nhất trong cả nước) theo tỷ giá 10 đồng tiền cũ đổi lấy 1 đồng tiền mới. Có
phát hành tiền loại 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng.
Việc đổi tiền lần thứ
nhất, lần thứ hai không có gì sai, vì lần thứ nhất thay tiền của chế độ cũ sang
tiền của chế độ mới là lẽ đương nhiên. Lần thứ hai đổi theo tỷ giá xấp xỉ ngang
nhau để cho thống nhất đồng tiền trong cả nước, cũng không có gì sai. Nhưng
việc đổi tiền lần thứ ba, tỷ giá quá chênh lệch là sai, vì chỉ trong một thời
gian rất ngắn, giá của 1 đồng tiền mới cũng chỉ bằng 1 đồng tiền cũ. Như vậy,
người dân bỗng dưng mất đi 9 lần tiền, làm cho đời sống nhân dân vốn đã khó
khăn càng thêm khó khăn chồng chất. Hơn nữa, mỗi người đều chỉ được đổi một
lượng tiền nhất định, theo kiểu cào bằng, chứ không phải công bằng, quy định
mỗi gia đình chỉ được phép đổi 2 nghìn đồng tiền mới. Số tiền cũ còn lại vượt
trội cũng có thể đổi, nhưng phải gửi vào ngân hàng để xem xét sau. Vì vậy, sau
khi đổi tiền, ai cũng như ai. Khi tiến hành đổi tiền lần thứ ba, các nhà tham
mưu và chuyên gia về tiền tệ của Đảng và Nhà nước tưởng rằng, sau khi đổi tiền,
lạm phát sẽ tụt xuống và giá trị của đồng tiền mới sẽ được nâng lên. Nào ngờ,
do hàng hóa khan hiếm, lại có sự tiếp tục trượt giá của đồng tiền, nên chỉ ít
lâu sau, mệnh giá tiền mới tăng gấp 10 lần tiền cũ, làm cho toàn bộ tiền gửi
tiết kiệm của các tầng lớp nhân dân chỉ còn lại 1/10 trong khi giá cả lại tăng
hơn trước, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt hoạt động kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.
Đây là một sai lầm nghiêm
trọng về đổi tiền mà Hội nghị Trung ương 9, khóa V (tháng 12-1985) của Đảng đã
kiểm điểm sâu sắc. Đại hội VI (1986)
cũng đã kiểm điểm vụ đổi tiền năm 1985:
“Việc giải quyết vấn đề
giá, lương, tiền đã phạm sai lầm. Thiếu biện pháp đồng bộ, có hiệu quả để Nhà
nước nắm được hàng và tiền. Các giải pháp cụ thể về định mức giá và quản lý
giá, về định mức lương và quản lý quỹ lương, về đổi tiền và bước đi trong việc
điều chỉnh giá, lương, tiền được tiến hành thiếu chuẩn bị chu đáo, không phù
hợp với tình hình thực tế.
Sai lầm trong lĩnh vực
phân phối, lưu thông là sai lầm rất nghiêm trọng trong lãnh đạo và quản lý kinh
tế”1.
“Những sai lầm nói trên là
những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về
chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”2.
Tiền tệ là một khoa học,
mà một khi đã nói đến khoa học, thì nó phải được đối xử như một khoa học, tức
là phải nghiên cứu nó một cách nghiêm túc.
------
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.25-26.