NGÀY XUÂN NÓI CHUYỆN VỀ ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI
PGS,TS
Đàm Đức Vượng
Xuân Kỷ Hợi 2019 mang về những cành đào, cành mai đỏ thắm cùng những cây quất xanh vàng trong mỗi gia đình cộng đồng người Việt Nam chúng ta mỗi khi ăn Tết. Xuân về, chúng ta tưởng nhớ đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người phát sinh, phát triển nền đạo đức trên thế gian này, mà người đời thường gọi là Đạo Phật.
Trong những năm, tháng công tác tại châu Âu, tôi nhận ra một điều là cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhiều người rất tôn sùng Đạo Phật. Họ xây chùa thờ Phật để được đón nhận những điều từ bi bác ái từ Đức Phật linh thiêng. Tôi thấy trong nhiều gian hàng của người Việt Nam ở Nga, Cộng hòa Séc, Cộng hòa Slôvaki, Liên bang Đức, Ba Lan, Hunggari, Thụy Điển,... có thờ tượng Phật. Hằng ngày, trước khi mở cửa bán hàng, họ thắp nén hương, cúng Phật. Điều đó chứng tỏ họ rất sùng bái Đạo Phật.
Tôi cũng đã đi tới quê hương Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở vùng biên giới Nê Pan - Ấn Độ, tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và cũng đã mua được những cuốn sách và những kỷ vật về Đức Phật. Tôi còn nhớ thuở nhỏ, chiều nào mẹ tôi cũng dẫn tôi lên chùa Làng và chùa Cổ Lễ ở Nam Định để cúng Phật. (Nhà tôi ở cách chùa Cổ Lễ chỉ có hơn 1 km). Từ đó, tôi bắt đầu suy ngẫm về Đức Thích Ca Mâu Ni và Đạo Phật.
Từ khi Đạo Phật ra đời, đã có nhiều người nghiên cứu học thuyết đạo đức này. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga,... đều viết những cuốn sách về Đạo Phật. Tại Việt Nam cũng đã xuất bản những cuốn sách quý về Đạo Phật: “Lịch sử Đức Phật Thích Ca” của Hòa thượng Thích Minh Châu; “Sự thật về Phật Giáo ở Việt Nam” của Hòa Thượng Thích Thanh Tứ, in trong cuốn “Lẽ phải của chúng ta”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Tư tưởng bảo vệ môi trường của Phật Giáo” của GS Tế Quần (Trung Quốc), đã được Thích Nhuận Đạt dịch ra tiếng Việt với tên sách là “Đạo Phật và môi trường” (Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2010); “Lý luận về tôn giáo và chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta”, tập bài giảng do Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học trực thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, biên soạn, PGS,TS Nguyễn Đức Lữ Chủ biên, v.v..
Những cuốn sách viết về Đạo Phật đã góp phần quan trọng vào việc làm sáng tỏ thêm tư tưởng của Phật Giáo. Tuy nhiên, trong cách giải thích và dẫn sự kiện về Đạo Phật, có một số cuốn sách lại không giống nhau. Thí dụ, như cuốn sách “Từ điển triết học” do tập thể các nhà khoa học Liên Xô trước đây biên soạn, ghi Phật Giáo ra đời từ thế kỷ III trước Công nguyên. Một cuốn sách khác xuất bản ở Việt Nam lại ghi Phật Giáo ra đời từ thế kỷ VI trước Công nguyên,...
Ông tổ sáng lập ra Đạo Phật là Thích Ca Mâu Ni (Tất Đạt Đa,...). Ý nghĩa của chữ “Thích Ca Mâu Ni” là “Đấng Sáng Suốt”. Theo Hòa thượng Thích Thanh Tứ, Đạo Phật ra đời với hơn 2500 năm hiện diện trên thế giới, dù phải trải qua những thăng trầm của lịch sử, song, Đạo Phật đã tự khẳng định mình trong đời sống xã hội, có những đóng góp tích cực vào việc hoàn thiện nhân cách của mỗi con người, cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ hòa bình của mỗi quốc gia.
Qua nghiên cứu, tôi thấy Đức Phật đi tìm sự giải thoát khỏi đau khổ của loài người không phải trong những cải cách xã hội, trong cuộc đấu tranh với những lực lượng thiên nhiên, mà trong việc hoàn thiện về mặt đạo đức, một việc có thể đạt được bằng cách xa lánh cuộc sống, đi vào Niết Bàn. Khi Đạo Phật ra đời, môn phái “Tiểu thừa” trong Đạo Phật dần dần xuất hiện. Cho đến những thế kỷ đầu sau Công nguyên, Đạo Phật coi việc cứu vớt con người phụ thuộc vào trời đất. Từ đấy, một môn phái mới của Đạo Phật ra đời mang tên “Đại thừa”. Đến đây, Đạo Phật có hai dòng: “Tiểu thừa” và “Đại thừa”. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều người cũng không phân biệt quá rạch ròi giữa Tiểu thừa và Đại thừa và mỗi khi vào chùa cúng Phật, người ta chỉ chung một ý niệm “cứu nhân độ thế”. Tôi có hỏi một số vị Đại đức, Hòa thượng là các vị theo “Tiểu thừa” hay “Đại thừa”, các vị đó đều nói chúng tôi theo học thuyết của Nhà Phật. Tuy nhiên, trong nghiên cứu khoa học về Đạo Phật, người ta vẫn đi sâu nghiên cứu riêng về Tiểu thừa và Đại thừa nằm trong sự nghiên cứu chung về Đạo Phật. Các nhà nghiên cứu Liên Xô trước đây cho rằng, khi Phật Giáo Đại thừa xuất hiện, nội dung triết học của Đạo Phật cũng có sự thay đổi. Phái Tiểu thừa cho rằng, vật chất và tinh thần là cái có thật, thế giới là có thật. Phái Đại thừa lại cho rằng, vật chất và tinh thần là cái không có thật, thế giới là không có thật. Dù sao, Đạo Phật là học thuyết về đạo làm người, về sự giải thoát cho con người thoát khỏi cảnh khổ đau. Vấn đề nhân quả trong tư tưởng Đạo Phật được xem như một quy luật “gieo nhân lành gặp quả thiện”, “gieo gió gặt bão”. Vấn đề tâm linh cũng được đặt ra trong tư tưởng Đạo Phật. Giáo sư Tế Quần viết: “Phật Giáo nhận định: Tâm linh là lực lượng trọng yếu dẫn dắt hành vi con người. Tâm thanh tịnh thì quốc độ thanh tịnh, tâm ô nhiễm thì quốc độ ô nhiễm” (đã dẫn, tr. 20).
Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra là giải quyết vấn đề đạo đức trong Đạo Phật phải đồng thời giải quyết vấn đề xã hội trong chính trị của một nhà nước. Nếu không giải quyết được vấn đề xã hội, thì vấn đề đạo đức cũng khó hoàn thiện. Vấn đề này đang còn có những ý kiến khác nhau cần được tiếp tục nghiên cứu.
1. Có một ông vua đầu óc xán lạn
2. Với Ngài, trần đời có bốn điều khép mở:
Praha, Séc, đêm 4 đến 8 -1-2002
Xuân Kỷ Hợi 2019 mang về những cành đào, cành mai đỏ thắm cùng những cây quất xanh vàng trong mỗi gia đình cộng đồng người Việt Nam chúng ta mỗi khi ăn Tết. Xuân về, chúng ta tưởng nhớ đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người phát sinh, phát triển nền đạo đức trên thế gian này, mà người đời thường gọi là Đạo Phật.
Trong những năm, tháng công tác tại châu Âu, tôi nhận ra một điều là cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhiều người rất tôn sùng Đạo Phật. Họ xây chùa thờ Phật để được đón nhận những điều từ bi bác ái từ Đức Phật linh thiêng. Tôi thấy trong nhiều gian hàng của người Việt Nam ở Nga, Cộng hòa Séc, Cộng hòa Slôvaki, Liên bang Đức, Ba Lan, Hunggari, Thụy Điển,... có thờ tượng Phật. Hằng ngày, trước khi mở cửa bán hàng, họ thắp nén hương, cúng Phật. Điều đó chứng tỏ họ rất sùng bái Đạo Phật.
Tôi cũng đã đi tới quê hương Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở vùng biên giới Nê Pan - Ấn Độ, tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và cũng đã mua được những cuốn sách và những kỷ vật về Đức Phật. Tôi còn nhớ thuở nhỏ, chiều nào mẹ tôi cũng dẫn tôi lên chùa Làng và chùa Cổ Lễ ở Nam Định để cúng Phật. (Nhà tôi ở cách chùa Cổ Lễ chỉ có hơn 1 km). Từ đó, tôi bắt đầu suy ngẫm về Đức Thích Ca Mâu Ni và Đạo Phật.
Từ khi Đạo Phật ra đời, đã có nhiều người nghiên cứu học thuyết đạo đức này. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga,... đều viết những cuốn sách về Đạo Phật. Tại Việt Nam cũng đã xuất bản những cuốn sách quý về Đạo Phật: “Lịch sử Đức Phật Thích Ca” của Hòa thượng Thích Minh Châu; “Sự thật về Phật Giáo ở Việt Nam” của Hòa Thượng Thích Thanh Tứ, in trong cuốn “Lẽ phải của chúng ta”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Tư tưởng bảo vệ môi trường của Phật Giáo” của GS Tế Quần (Trung Quốc), đã được Thích Nhuận Đạt dịch ra tiếng Việt với tên sách là “Đạo Phật và môi trường” (Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2010); “Lý luận về tôn giáo và chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta”, tập bài giảng do Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học trực thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, biên soạn, PGS,TS Nguyễn Đức Lữ Chủ biên, v.v..
Những cuốn sách viết về Đạo Phật đã góp phần quan trọng vào việc làm sáng tỏ thêm tư tưởng của Phật Giáo. Tuy nhiên, trong cách giải thích và dẫn sự kiện về Đạo Phật, có một số cuốn sách lại không giống nhau. Thí dụ, như cuốn sách “Từ điển triết học” do tập thể các nhà khoa học Liên Xô trước đây biên soạn, ghi Phật Giáo ra đời từ thế kỷ III trước Công nguyên. Một cuốn sách khác xuất bản ở Việt Nam lại ghi Phật Giáo ra đời từ thế kỷ VI trước Công nguyên,...
Ông tổ sáng lập ra Đạo Phật là Thích Ca Mâu Ni (Tất Đạt Đa,...). Ý nghĩa của chữ “Thích Ca Mâu Ni” là “Đấng Sáng Suốt”. Theo Hòa thượng Thích Thanh Tứ, Đạo Phật ra đời với hơn 2500 năm hiện diện trên thế giới, dù phải trải qua những thăng trầm của lịch sử, song, Đạo Phật đã tự khẳng định mình trong đời sống xã hội, có những đóng góp tích cực vào việc hoàn thiện nhân cách của mỗi con người, cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ hòa bình của mỗi quốc gia.
Những người theo Đạo Phật chuyên nghiệp, thường lấy tên họ của
mình là “Thích”, “Đàm”.Sức mạnh của Đạo Phật chính là sự giải thoát khổ đau cho nhân loại
cần lao bằng cách từ chối những ham muốn và đạt tới “Sáng suốt Tối cao” - Niết
Bàn. Khi mới ra đời, Đạo Phật đã được xem là một tôn giáo chính thức. Sau khi
ra đời, Đạo Phật lan truyền ở nhiều nước phương Đông như Ấn Độ, Nhật Bản, Trung
Quốc, Nê Pan, Miến Điện (Mianma), Thái Lan, Lào, Campuchia,... Đạo Phật đã
truyền vào nước ta khá sớm. Hòa thượng Thích Thanh Tứ viết: “Đạo Phật được
truyền vào Việt Nam đến nay đã 20 thế kỷ, vốn có tư tưởng truyền thống gắn liền
với sinh hoạt văn hóa “nông nghiệp lúa nước”, một nền văn hóa nhân bản bao
dung, trí tuệ và khai phóng, đượm sắc thái hiếu sinh, hiếu hòa và giải thoát.
Chính vì thế mà Đạo Phật đã được nhân dân Việt Nam đón nhận một cách trân trọng
có chọn lọc”. “Với nước ta, Đạo Phật đã từng là quốc giáo trong suốt chiều dài
lịch sử Đinh, Lê, Lý, Trần gắn liền với tên tuổi và tư tưởng của các vị thiền
sư, pháp sư, quốc sư như Khuông Việt, Đỗ Thuận, Vạn Hạnh, Điều Ngự Giác Hoàng
Trần Nhân Tông,...” (Bài viết của Hòa thượng Thích Thanh Tứ, đã dẫn, tr.
210,211).
Qua nghiên cứu, tôi thấy Đức Phật đi tìm sự giải thoát khỏi đau khổ của loài người không phải trong những cải cách xã hội, trong cuộc đấu tranh với những lực lượng thiên nhiên, mà trong việc hoàn thiện về mặt đạo đức, một việc có thể đạt được bằng cách xa lánh cuộc sống, đi vào Niết Bàn. Khi Đạo Phật ra đời, môn phái “Tiểu thừa” trong Đạo Phật dần dần xuất hiện. Cho đến những thế kỷ đầu sau Công nguyên, Đạo Phật coi việc cứu vớt con người phụ thuộc vào trời đất. Từ đấy, một môn phái mới của Đạo Phật ra đời mang tên “Đại thừa”. Đến đây, Đạo Phật có hai dòng: “Tiểu thừa” và “Đại thừa”. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều người cũng không phân biệt quá rạch ròi giữa Tiểu thừa và Đại thừa và mỗi khi vào chùa cúng Phật, người ta chỉ chung một ý niệm “cứu nhân độ thế”. Tôi có hỏi một số vị Đại đức, Hòa thượng là các vị theo “Tiểu thừa” hay “Đại thừa”, các vị đó đều nói chúng tôi theo học thuyết của Nhà Phật. Tuy nhiên, trong nghiên cứu khoa học về Đạo Phật, người ta vẫn đi sâu nghiên cứu riêng về Tiểu thừa và Đại thừa nằm trong sự nghiên cứu chung về Đạo Phật. Các nhà nghiên cứu Liên Xô trước đây cho rằng, khi Phật Giáo Đại thừa xuất hiện, nội dung triết học của Đạo Phật cũng có sự thay đổi. Phái Tiểu thừa cho rằng, vật chất và tinh thần là cái có thật, thế giới là có thật. Phái Đại thừa lại cho rằng, vật chất và tinh thần là cái không có thật, thế giới là không có thật. Dù sao, Đạo Phật là học thuyết về đạo làm người, về sự giải thoát cho con người thoát khỏi cảnh khổ đau. Vấn đề nhân quả trong tư tưởng Đạo Phật được xem như một quy luật “gieo nhân lành gặp quả thiện”, “gieo gió gặt bão”. Vấn đề tâm linh cũng được đặt ra trong tư tưởng Đạo Phật. Giáo sư Tế Quần viết: “Phật Giáo nhận định: Tâm linh là lực lượng trọng yếu dẫn dắt hành vi con người. Tâm thanh tịnh thì quốc độ thanh tịnh, tâm ô nhiễm thì quốc độ ô nhiễm” (đã dẫn, tr. 20).
Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra là giải quyết vấn đề đạo đức trong Đạo Phật phải đồng thời giải quyết vấn đề xã hội trong chính trị của một nhà nước. Nếu không giải quyết được vấn đề xã hội, thì vấn đề đạo đức cũng khó hoàn thiện. Vấn đề này đang còn có những ý kiến khác nhau cần được tiếp tục nghiên cứu.
Nghiên cứu các tài liệu
về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và học thuyết của Ngài - Đạo Phật, tôi viết nên bài
thơ Thích Ca Mâu Ni. Bài thơ này chia làm hai phần: Phần một, viết về
tiểu sử và sự nghiệp Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Phần hai, viết về học thuyết của
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni:
1. Có một ông vua đầu óc xán lạn
Tên ngài là Tịnh Phạn và
vợ ngài Hoàng hậu Mada.
Cả hai người đức độ vị
tha.
Một hôm Hoàng hậu Mada
trai giới1.
Bà mộng thấy con voi
trắng sáu ngà
Ngậm cành sen sà xuống
lòng Bà.
Rồi Bà đưa tay vịn một
cành hoa.
Thế là Thái tử Tất Đạt
Đa2 sinh ra.
Đêm ấy đúng ngày trăng
rằm
Cả bầu trời bát ngát ánh
sao xa.
Ngài thuộc dòng họ Thích
Ca.
Ở chân núi Hy Mã Lạp
Sơn, xứ Ca Tỳ La3.
Bên bờ sông Rôhini điểm
tuyết sương pha.
Loài người được chứng
kiến Đức Giác Ngộ sinh ra.
Ngài có tướng tốt, văn
chương, võ nghệ tài ba.
Một hôm, Thái tử phóng
ngựa ra thành du ngoạn đầu xuân.
Đâu đâu cũng thấy người
người cực khổ trăm phần.
Ngài buồn thương, trầm
tư mặc tưởng.
Vua Cha lo lắng bội
phần, liền cưới vợ cho Chàng.
Lấy công chúa đẹp như
bông hoa, nàng Daduđàla.
Cầu mong cha Chàng có
được đôi chút khuây khoa.
Chàng càng buồn rầu,
trông tiều tụy như héo nụ hoa.
Chàng muốn biết nguyên
nhân đau khổ của kiếp người.
Tìm ra lối thoát và cách
thức diệt khổ đau.
Một ngày ảm đạm, Chàng
lặng lẽ từ biệt vợ con
Quyết đi tìm sự giải
thoát cho những kiếp lầm than.
Để cho đời vơi đi những
lỗi thác oan.
Để cho đời ấm lên với
ánh nắng chiếu tràn.
Khi đến bờ sông Anôma,
Ngài vấn an
Liền xuống ngựa, mặc áo
thường dân, lấy gươm cắt tóc.
Rồi bảo xanặc về thưa
với Vua Cha
và nói với nàng Công
chúa Daduđàna xin đừng than
khóc về chí hướng và mục
đích ra đi của Ngài.
Ngài hành khất đến thành
Vương Xá
Tìm thầy học đạo và suy
ngẫm sự đời.
Tiếc thay, các thầy tư
tưởng lại rất chơi vơi
Không giải đáp được điều
Ngài mong muốn.
Ngài liền hành trình đến
Bồ Đề Đại Tràng
Để tu thân với niềm hy
vọng an khang.
Sáu năm khổ hạnh tiều
tụy thân tàn
Ngài vương vấn một chút
hoang mang
Nên có nhận dùng bát cơm
và sữa của nàng Sujâta dâng cúng.
Hành vi của Ngài làm cho
năm người bạn đồng tu lúng túng
Cho rằng Ngài đã bị cám
dỗ bởi quỷ ma.
Từ đây, trên chặng đường
tu hành chỉ còn một Thích Ca.
Ngài đến bờ sông Ni Liên
Thuyền rực rỡ ngàn hoa.
Tắm rửa xong, Ngài thiền
định dưới gốc cây Tất Bát La4.
Với lời nguyền quyết tâm
đắc đạo.
Vào một đêm trăng rằm
tháng tư âm lịch
Ma Vương biết Ngài sắp
vào cầu đắc đạo
Liền sai mỹ nữ đến quyến
rũ với sắc đẹp lung linh
Muốn cho Ngài bị lầy lội
trong cõi mê tình.
Để quên đi những gì gọi
là đạo lý quang minh.
Với nghị lực phi thường,
Ngài đã thắng được chính mình.
Gạt bỏ Ma Vương bằng
những phép diệu kỳ linh
Để trở thành người giác
ngộ cỡ siêu nhân
Vào lúc tuổi đời đúng ba
mươi lăm
Đến nay đã là hai nghìn
năm trăm năm.
2. Với Ngài, trần đời có bốn điều khép mở:
Khổ - nhân khổ - sự tiêu
diệt khổ - con đường diệt khổ
và chỉ ra tám cách diệt
khổ đau.
Ngài cho đó là tám phép
nhiệm màu.
Đó là: chính kiến -
chính nghĩ - chính ngữ - chính nghiệp -
chính mệnh - chính chân
- chính định - chính niệm.
“Bát chính” của Ngài sao
mà thánh thiện.
Song sự đời lại rắc rối
biết bao nhiêu chuyện.
Rồi chính đời Ngài cũng
có lúc thoát được khổ đâu
Trong lúc nhân loại vẫn
còn bao nỗi u sầu.
Rút cục, vẫn đắm đuối
giữa dòng hỡi Đức Phật ơi!
Và “bát chính” của Ngài
vẫn chỉ là nếp sống đạo đức thôi.
Ngài nói: Con người là
một tổng hợp vật chất, tinh thần
Nên người xấu (ácsimê)
có thể sẽ là tốt lành.
Họ vẫn có thể ấm lên
trong cõi lòng nguội lạnh.
Lời Ngài nói là lời biện
chứng
Vì Ngài đã thấy được sự
vận động của con người.
Ngài muốn khai sáng cho
con người
thấy được sự thật của
cuộc đời
mặc cho sự thật đó sao
quá chơi vơi
nó luôn luôn trôi lơ
lửng giữa dòng đời.
Tâm tưởng Ngài muốn từ -
bi - hỉ - xả.
Tiếc thay đời lại bao
phen vất vả
Nước mưa trời, nước mắt
đời rong rơi lã chã.
Bởi sự vật vốn đã là vô
ngã
Như Ngài đã lý giải về
cuộc sống con người.
Ngài không ô nhiễm cuộc
đời.
Nhưng cuộc đời đã ô
nhiễm Ngài.
Chính vì vậy mà Ngài đã
trở thành Phật
Thích Ca Mâu Ni!
Đạo lý duyên khởi mấy
khi là sự thật
Khi nhận thức chủ quan
và đối tượng khách quan
bị hiểu thiên lệch.
Trên thực tế nó đã bị
người đời làm xộc xệch
Lôi kéo cái này ngả sang
cái kia
Mà không biết rằng tự nó
đã phân chia.
Ngài nói: “Cái này có sẽ
có cái kia
Cái này sinh thì cái kia
sinh
Cái này không thì cái
kia không
Cái này diệt thì cái kia
diệt”.
Lời Ngài dạy đời cho là
rất tuyệt.
Nhưng thưa đấng siêu
nhân đời còn là hơn thiệt
Diệt - sinh - sinh -
diệt như ngọn sóng hạ xuống nhô lên
Làm cho đời đắm đuối với
cơn ác mộng triền miên.
Ngài muốn đưa loài người
đến cõi Niết Bàn.
Muốn tưới dòng đời cho
khắp thế gian.
Khi tham - sân - si tiêu
diệt con người sẽ được sống yên lành.
Tư duy của Ngài thể hiện
tấm lòng nhân.
Ngài cho rằng nếu không
tạo nhân sống chết
Nên cũng không còn khái
niệm sống chết.
Người chết là tiếp tục
của sự sống trong một trạng thái khác.
Nó cuốn nhau chảy xiết
như một dòng thác
Tiếp diễn liên hồi trong
khoảnh khắc của thiên nhiên.
Ngài nói: Không có cái
“ai” ở ngoài sự sống đến cai quản
cuộc sống cõi trần gian.
Ngài đã đưa con người
trở về hiện thực khách quan.
Tư tưởng này của Ngài
sáng lóe lên ở khắp thế gian.
Nó phủ lên trong đổ nát
hoang tàn.
Ngài khuyên loài người
không được sát sinh,
không trộm cướp, không
gian tà, không nói dối,
không bê tha, không tham
lam, không tàn bạo, không tà kiến.
Nói chung lại không làm
điều ác và hướng vào điều thiện.
Ngài muốn ngăn loài
người không tham chiến
Sống với nhau bằng tình
thương và điều kiện.
Đó là tấm lòng cao muôn
trượng của Ngài
Nó sáng bừng lên lồng
lộng giữa trần ai.
Ngài nói: Ta không có
quyền ban phước cho ai
Chỉ hướng cho con người
con đường đi đến cam lai
Bằng việc đem tâm - thức
để xây đắp ngày mai.
Lấy đó làm lý sống và lẽ
sống ở đời.
Với Ngài mọi sự khác
nhau của loài người
đều do nghiệp quyết định
cả rồi.
Đó là học thuyết nhân
quả sáng ngời.
Để răn loài người và răn
cuộc đời hãy sống cho tốt tươi.
Ngài giảng giải về nhân
- duyên - nhân - quả.
Nhân sinh ra quả - quả
từ nhân mà sinh.
Quả - nhân - nhân - quả
là một kiếp luân tình.
Với Ngài nhân - quả là
cái tất nhiên
Bởi con người là sản
phẩm của quy luật tự nhiên.
Ngài muốn giải thoát khổ
đau bằng giá trị đạo đức tôn nghiêm.
Hậu thế đánh giá cao
Ngài và tôn Ngài là người hiền.
Nhân loại còn phải bổ
sung bao học thuyết
Mà vẫn chưa giải thoát
được cho con người hết khổ đau.
Dù sao học thuyết của
Ngài vẫn có phép nhiệm màu.
Chùa thờ Ngài trên trần
gian vẫn nghi ngút khói hương.
Tấm lòng từ bi của Ngài
vẫn tỏa sáng bốn phương.
Nhân loại xin cúi chào
Ngài
Hỡi Đức Phật linh
thiêng!
Thích Ca Mâu Ni!
Praha, Séc, đêm 4 đến 8 -1-2002
Đức Vượng
(Cử nhân Ngữ văn)
------
1. Trai giới: Ăn chay và
làm theo đúng quy định cúng lễ.
2. Đức Phật mang các
tên: Thích Ca Mâu Ni, Tất Đạt Đa, Gôtama, Saakyamuni,... Những tên chữ này là
sự phát âm khác nhau của ngôn ngữ các nước khác nhau về tên dòng họ Thích Ca.
3. Ca Tỳ La Vệ
(Kapilavatthu) là xứ nằm ở biên giới Ấn Độ - Nêpan (Népan).
4. Cây Tất Bát
La: Cây Bồ Đề.