NGÀY XUÂN THƯƠNG NHỚ LÝ CHIÊU HOÀNG
PGS,TS
Đàm Đức Vượng
Tượng thờ vua bà Lý Chiêu Hoàng đầu đội miện Kim Khôi, mình khoác áo long bào ở đền Rồng. Ảnh tư liệu
Nhìn cây mai,
cây quất và cành đào tươi tốt, hoa nở mỗi dịp xuân sang, người ta lại nhớ đến
một nhân vật lịch sử đáng yêu và đáng thương trong lòng người dân nước Đại Việt
xa xưa, nay là nước Việt Nam. Đó là bà Lý Chiêu Hoàng, Vua Triều Lý; một người
đàn bà cực kỳ xinh đẹp, có lòng thương người, giúp đỡ người gặp khi hoạn nạn
khó khăn.
Tên khai sinh
của Bà là Lý Phật Kim, sau đổi làm Thiên Hinh, khi lên làm vua lấy hiệu là Lý
Chiêu Hoàng, còn gọi là Lý Chiêu Thánh. Bà là vị vua thứ 9, vị vua cuối cùng
của Triều Lý; sinh tháng 9 năm Mậu Dần (1218), tại Kinh thành Thăng Long, quê
gốc ở Cổ Pháp, Bắc Ninh; là con gái thứ của Vua Lý Huệ Tông.
Vua Cha Lý Huệ
Tông truyền ngôi, Bà lên làm Vua từ năm Giáp Thân (1224) đến năm Ất Dậu (1225),
lấy niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo (1224-1225). Bà là Nữ hoàng duy nhất của
nước Đại Việt.
Lúc bấy giờ,
Trần Thủ Độ “gài” cháu mình là Trần Cảnh con Trần Thừa vào trong cung hầu hạ Lý
Chiêu Hoàng. Được Lý Chiêu Hoàng quý mến, thường hay té nước vào người Trần Cảnh,
trêu đùa mỗi khi Trần Cảnh mang nước vào cho Lý Chiêu Hoàng rửa mặt. Trần Cảnh
thấy vậy, liền về kể cho Trần Thủ Độ nghe. Thấy vậy, Trần Thủ Độ nói đây là
điềm Nhà Trần được nước và bảo cháu Trần Cảnh, rằng, nếu lần sau, Lý Chiêu
Hoàng có té nước vào người, thì hãy giơ vạt áo ra hứng lấy. Một thời gian sau,
theo “đạo diễn” của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng đã kết duyên với Trần Cảnh.
Ngày 21 tháng 10
năm Ất Dậu (1225), theo sự “gợi ý” của Trần Thủ Độ, Vua Lý Chiêu Hoàng ra chiếu
chỉ nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh cháu Trần Thủ Độ.
Ngày 11 tháng 12
năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An. Trước bá quan văn
võ, Vua Lý Chiêu Hoàng cởi hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Vua, lấy hiệu là
Trần Thái Tông; đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất. Trần Cảnh lên làm
Vua, phong cho Lý Chiêu Hoàng làm Lý Chiêu Thánh Hoàng hậu. Từ đây, Triều Lý
kết thúc và thay vào đó là Triều Trần.
Vua
Trần Cảnh và Hoàng hậu Lý Chiêu Thánh sống chung tình. Đến năm Quý Tỵ (1233),
thì sinh ra Thái tử Trần Trịnh, nhưng vừa sinh ra, Thái tử đã chết. Lúc này,
Trần Thủ Độ và vợ là Trần Thị Dung sợ Vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) tuyệt tự,
không người nối dõi ngôi Vua, cho nên vào tháng 1 năm Đinh Dậu (1237), họ ép
Công chúa Lý Thuận Thiên (chị ruột của Lý Chiêu Hoàng), vợ Trần Liễu (anh ruột
Trần Cảnh) đang có mang, lấy Trần Cảnh, lập Thuận Thiên làm Hoàng hậu. “Lý
Chiêu Thánh đau khổ, sống âm thầm trong cung cấm, đã định thoát tục đi tu”.
Lý Chiêu Thánh mất tháng 3 năm Mậu Dần (1278), thọ 60 tuổi. Như vậy, Bà sinh năm Mậu Dần và cũng mất vào năm Mậu Dần, tròn một giáp. Thi hài Bà được táng ở bìa rừng Báng, phía Tây Thọ Lăng Thiên Đức. Người đời sau đã lập đền thờ Bà, gọi là Long Miếu (Đền Rồng). Miếu này đền nay không còn. Tương truyền, khi qua đời, tóc Bà vẫn đen nhánh, môi vẫn đỏ như son, má vẫn ửng hồng.
Lý Chiêu Thánh mất tháng 3 năm Mậu Dần (1278), thọ 60 tuổi. Như vậy, Bà sinh năm Mậu Dần và cũng mất vào năm Mậu Dần, tròn một giáp. Thi hài Bà được táng ở bìa rừng Báng, phía Tây Thọ Lăng Thiên Đức. Người đời sau đã lập đền thờ Bà, gọi là Long Miếu (Đền Rồng). Miếu này đền nay không còn. Tương truyền, khi qua đời, tóc Bà vẫn đen nhánh, môi vẫn đỏ như son, má vẫn ửng hồng.
Lý Chiêu
Thánh (Lý Chiêu Hoàng) là một người sống nhân hậu, nhưng số phận không gặp may,
một lần bị ép nhường ngôi vua cho Trần Cảnh và một lần phải sống cô đơn nơi
cung cấm khi Trần Cảnh lấy Công chúa Thuận Thiên.
Tuy nhiên,
cuộc đời Lý Chiêu Thánh, bên cạnh cái rủi lại có cái may do ăn ở phúc đức. Số
là sau hơn 20 năm sống cô đơn, hạnh phúc lại đến với Lý Chiêu Thánh, khi vào
năm Mậu Ngọ (1258), sau khi Đại Việt chiến thắng quân Nguyên Mông, Vua Trần
Thái Tông gả Công chúa Lý Chiêu Thánh cho Lê Phụ Trần, một viên tướng lĩnh tài
ba, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược nước ta.
Lúc bấy giờ, Lý Chiêu Thánh đã 40 tuổi, nhưng đã tìm thấy hạnh phúc thật sự,
sinh được hai người con, một trai, một gái: Lê Tông làm quan dưới Triều Trần
đến tước Thượng vị hầu và Lê Ngọc Khê sau được phong là Công chúa Ứng Thụy.
Ở Bắc Ninh có
đền thờ Lý Bát Đế, thờ 8 vị vua Triều Lý, gọi là đền Đô. Như vậy, không có Lý
Chiêu Hoàng. Tôi (ĐĐV) nghĩ rằng, nên cần xem lại, dù sao Lý Chiêu Hoàng cũng
đã được Vua Cha Lý Huệ Tông truyền ngôi, cho nên phải gọi là Lý Cửu Đế mới đúng
(thêm Lý Chiêu Hoàng). Về vấn đề này, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Đức Thìn đã phán
đoán: Lý Chiêu Hoàng không được thờ ở đền Đô có thể vì Bà mới làm Vua được 2
năm, mà năm lên làm Vua mới 7- 8 tuổi, cho nên không nắm thực quyền...
Thương cảm trước số
phận Lý Chiêu Hoàng, tôi có làm bài thơ trên về Nữ hoàng nước Đại Việt:
Số người phú quý
vinh hoa
Bị người ruồng bỏ hóa
ra mất chồng.
Nữ hoàng Đại Việt biết
không
Trở thành Hoàng hậu
không công Nhà Trần.
Sóng to chèo lái
gian truân
Thoắt thôi tuổi đã tứ
tuần còn đâu.
Dập dềnh bãi bể nương
dâu
Than ôi! Chịu một kiếp
sầu đong đưa.
Trần gian hết nắng lại
mưa
Lý Chiêu Hoàng đã biết
chưa cuộc đời!
Hà
Nội, ngày 12-1-2017
Đức
Vượng
(Cử
nhân Ngữ văn)