CẢM NGHĨ VỀ MỘT NHÀ THƠ ĐẦY TÂM HUYẾT TRẦN XUÂN HÒA
Phó giáo
sư, tiến sĩ sử học, Cử nhân Ngữ văn Đàm Đức
Vượng, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Nghiên
cứu Nhân tài Nhân lực
Hà Nội, ngày 4 tháng 6 năm 2019
Nhà thơ thương binh, lương y Trần Xuân Hòa.
Một con người và một tâm hồn thơ
Chiều ngày 1-6-2019, thiếu
tướng Nguyễn Đình Được, Viện trưởng Viện Khoa học Nghiên cứu Nhân tài Nhân lực
đến trao cho tôi bộ thơ đồ sộ của ông Trần Xuân Hòa (Xuân Hòa), một lương y,
cựu chiến binh, thương binh, một người nhiễm chất độc màu da cam (dioxin),
thành viên của Viện Khoa học Nghiên cứu Nhân tài Nhân lực. Thiếu tướng, Viện
trưởng Nguyễn Đình Được đề nghị tôi viết lời giới thiệu cho tập thơ đồ sộ này
sắp được xuất bản.
Đây là một bộ thơ gồm 26
tập, mỗi tập khoảng 50 trang, khổ giấy A4, tổng cộng là ba nghìn bài thơ do ông
sáng tác từ bấy lâu nay, bao gồm 19 tập thơ viết về chữa bệnh bằng cây thuốc
nam; 4 tập viết về Kinh văn (thăm bệnh); 1 tập viết về chất độc màu da cam; 1
tập viết về tình yêu, 1 tập viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tôi bàng hoàng về
sức viết của ông. Thật đáng bái phục! Đọc qua 26 tập thơ của ông, tôi thấy ông
xứng đáng là một nhà thơ, một lương y chân chính, một thương binh có lòng nhân
ái, một nhân tài đất Việt. Thơ ông viết không phải dành cho nơi “cung đình”, mà
là dành cho chốn hương quê, đường phố. Người đọc thơ cảm nhận cái tâm này của
ông nên rất quý mến ông, kính trọng ông.
Trần Xuân Hòa sinh năm
1944, quê xã Tiến Thắng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, thường trú tại 293/99/6,
đường Lê Hồng Phong, phường 8, thành phố Vũng Tàu. Cuộc đời ông đã trải qua
nhiếu năm, tháng lăn lộn với chiến trường khói lửa. Ông đã từng chữa bệnh cho
binh sĩ, cho người nghèo và chính mình đã mang vết thương chiến tranh dioxin,
trở thành thương binh có hạng.
Thơ Xuân Hòa chưa phải là
viên ngọc long lanh dưới ánh mặt trời, còn là viên ngọc thô ráp, nhưng đầy ắp
cái tâm, cái tình, cái thực, cái hồn trong thơ. Mộc mạc, đơn sơ, giản dị, chân
thành, thiết thực là những nét đặc sắc trong thơ ông. Thật đáng quý biết bao
một con người lăn lộn với thơ ca và cuộc đời.
Trần Xuân Hòa thường tâm
sự với những người tri kỷ về người vợ thân yêu của mình, rằng, bà ấy lo “hậu
phương”, cơm nước để cho ông làm thơ.
“Cám ơn vợ nấu cơm canh
Thời gian đã dành chồng
viết vần thơ”.
Thật hạnh phúc cho ông có
một người vợ đáng yêu như thế!
Phu nhân nhà thơ thương
binh, lương y Trần Xuân Hòa
Những bài thơ viết về chữa bệnh
bằng cây thuốc nam
Thế mạnh trong thơ
của Trần Xuân Hòa được thể hiện ra những bài thơ chữa bệnh bằng cây thuộc Nam.
Trong số những tập
thơ do nhà thơ Trần Xuân Hòa sáng tác, tôi tâm đắc nhất là 19 tập thơ của ông
viết về chữa bệnh bằng cây thuốc Nam. Ông cho biết là ông dựa vào sách “Từ điển
cây thuốc Việt Nam” của tiến sĩ Võ Văn Chi xuất bản năm 1999 để viết ra những
tập thơ này. Ông nói: “Tôi có một chút ham thích và cũng có biết về y học dân
tộc, do đó, mạnh dạn viết những vần thơ đơn giản để có ai đọc được thấy mau nhớ
và làm vui yêu thiên nhiên ban tặng. Đặc điểm không thể đem vào làm thuốc chữa
bệnh, vì nó chỉ là gợi cảm mà thôi”. Việc biến văn xuôi thành thơ trong lịch sử
cũng đã có. Cụ Nguyễn Du đã biến văn xuôi trong truyện Kim Vân Kiều của Thanh
Tâm Tài Nhân trở thành kiệt tác thơ trong Truyện Kiều, một điển hình của việc
biến văn xuôi thành thơ. Trần Xuân Hòa cũng biến văn xuôi trong sách “Từ điển
cây thuốc Việt Nam” thành thơ chữa bệnh là một cố gắng đáng ghi nhận.
Sáng tác được những bài
thơ chữa bệnh bằng cây thuốc nam hẳn là Trần Xuân Hòa yêu thiên nhiên (tự
nhiên) lắm. Thiên nhiên ở đây là cây, lá, hoa, quả, củ, những thứ biến thành
thuốc, giúp cho người khỏi bệnh, mà ông yêu quý. Thiên nhiên là vật chất trong
muôn nghìn biểu hiện và hình thức vận động của nó. Tính thống nhất của thiên
nhiên là ở tính vật chất của nó. Sự giải thích khoa học về các hiện tượng tự
nhiên không cần phải dùng đến bất cứ một nguyên nhân bên ngoài nào, nguyên nhân
tinh thần, thần linh hay nguyên nhân nào khác. Ph.Ăngghen nói: “Quan niệm duy
vật về tự nhiên không phải là cái gì khác mà chỉ là sự hiểu biết tự nhiên theo
bộ mặt vốn có của nó, không thêm không bớt” (Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, bản tiếng Pháp, Paris, 1952, tr. 198). Kỳ
thực, thiên nhiên là một thực tại khách quan tồn tại bên ngoài ý thức và không
phụ thuộc vào ý thức. Thiên nhiên phát triển vĩnh viễn, không có bắt đầu và
cũng không có kết thúc trong thời gian và không gian. Vật chất vô cơ đã đẻ ra
hữu cơ. Con người cũng là một bộ phận của thiên nhiên, là sản vật cao cấp của
thiên nhiên. Nhờ nhận thức được những quy luật khách quan của tự nhiên, nhờ
những công cụ sản xuất do người chế tạo ra, nên con người tác động vào tự
nhiên, cải tiến tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục tùng mình. Chủ nghĩa duy vật
biện chứng xem xét tự nhiên trong sự vận động và phát triển của nó. Thiên nhiên
có lúc rất hiền hòa, những đêm trăng thanh, gió mát, nhưng cũng có lúc gầm lên,
giận dữ, thể hiện ở những trận động đất, bão tố, mưa nguồn. Trần Xuân Hòa rất
yêu quý thiên nhiên, nên đã được thiên nhiên ban tặng những hoa, lá, cành để
chế ra những vị thuốc chữa bệnh cho con người bằng những vần thơ.
Atiso là một dạng trà uống
hằng ngày. Khi vào thơ Trần Xuân Hòa nó trở thành một vị thuốc quý chữa các
bệnh trợ tim, lợi tiểu:
“Bông dùng chữa bệnh tăng
dương
Trợ tim lợi tiểu ăn ngon
sữa nhiều.
Nuôi con mau lớn ta yêu
Có bao tác dụng nhiều điều
rất hay.
Muốn gan khỏe mạnh cây này
Tiêu khát mà uống trị hay
vô cùng”.
(Thơ Trần Xuân Hòa)
…
“Họ A” (vần A, Ă, Ớ),
những cây thuốc trong thơ chữa bệnh bằng thuốc nam của Trần Xuân Hòa được khai
thác khá kỹ: Atiso, A Kê, Anh Đào, Áp Nhi Cần, Ắc Ó, Âm Địa Quyết, Ấu (củ), Ấu
dại, Ấu nước,…
“Họ B” (vần B) có các vị
thuốc: Ba Chạc, Ba Chạc Poilane, Ba Chẽ, Ba Chĩa, Ba Đậu, Ba Đậu Tây, Ba Gạc,
Ba Gạc Ấn Độ, Ba Gạc Châu Đốc, Ba Gạc Cu Ba, Ba Gạc châu Phi, Ba Gạc lá nhỏ, Ba
Gạc lá to, Ba Gạc Vân Nam, Ba Kích, Ba Kích Long, Ba Soi, Bả Dột, Bả Chuột, Bã
Thuốc, Bạ Cốt Tiêu, Bạc Biển, Bạc Hà, Bạc Hà Cay, Bạc Hà Lục, Bạc Lá, Bạc Thau,
Bách Bệnh, …
Ba Kích vào thơ của Trần
Xuân Hòa chữa bệnh trở thành cây thuốc quý chữa các bệnh liệt dương, thận yếu.
Người bệnh đã quá quen
thuộc với cây thuốc Bách Bệnh:
“Miền Trung cho tới Tây
Nguyên
Cả đông Nam Bộ gọi liền
bách tôi.
Khí hư ăn yếu đau người
Chỗ nào cũng tới nên đời
đặt cho.
Một trăm con bệnh đầy kho
Do đó chữ “Bách” cũng lo
chuyên cần.
Nôn mửa tả lỵ cốt cân
Ngộ độc tửu quá, góp phần
tẩy giun.
Không tiêu, ngực tức, tâm
bồn
Tích trệ u bướu hai sườn
lưỡi răng.
Người đời đặt gọi một trăm
Là cây bách bệnh siêng
năng cùng người”.
(Thơ Trần Xuân Hòa)
Có lần, một anh bạn tôi cho
tôi một liều thuốc. Trong liều thuốc này có thành phần của cây Bách Bệnh. Uống
vào thấy chứng đau khớp, đau lưng, đau cổ, đau vai gáy, đỡ rất nhiều. Nay đọc
thơ của Trần Xuân Hòa viết về cây Bách Bệnh, làm tôi càng tin là hiệu nghiệm.
Bí Đao tưởng để chỉ nấu
canh (canh bí), nhưng khi vào thơ của Trần Xuân Hòa trở thành cây thuốc chữa bệnh
đáng quý, trở thanh Nam dược thần hiệu:
“Đông qua bí quả bí đao
Tính lành không độc nấu
xào luộc ăn
Tiêu phù chữa thũng chống
căng
Giải nhiệt dùng bí là tăng
lợi này.
Tiểu buốt nên uống bí ngay
Nam dược thần hiệu bậc
thầy sử ghi”.
(Thơ
Trần Xuân Hòa)
Bí Đỏ vào thơ của Trần
Xuân Hòa cũng trở thành vị thuốc quý:
“Bí Đỏ chẳng giấu tên ai
Già trẻ trai gái ăn hoài
thường xuyên.
Hạt dùng tiêu diệt giun
kim
Giết loài xơ mít lợi liền
tiểu đau.
Nhọt sưng bí đỏ chữa mau
Nấu chè vị ngọt thay rau
luôn dùng”.
(Thơ Trần Xuân Hòa)
“Họ Bồ” trong thơ của Trần
Xuân Hòa gồm Bồ Công Anh, Bồ Hoàng, Bồ Kết Tây, Bồ Ngót Rừng, Bồ Ngót Vuông, Bồ
Quân, Bồ Quân Ấn, Bồ Quân Lá To đều là những vị thuốc chữa bệnh cho nhiều
người.
Cây Bồ Công Anh, Bồ Công Anh Hoa Tím vào thơ
của Trần Xuân Hòa chữa các bệnh: thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, lọc máu, lợi
mật, nhuận tràng, sốt rét, sưng lá lách.
Cây Bưởi được gieo trồng
trên khắp mọi miền đất nước. Cây Bưởi sinh ra quả Bưởi. Quả Bưởi dùng để ăn rất
ngon, nhiều nước cũng đã trở thành thơ của Trần Xuân Hòa. Ăn múi Bưởi vào, ta
có cảm giác giải nhiệt, làm vơi đi những cơn cảm mạo, thương hàn, trúng phong.
Vỏ Bười dùng để nấu nước gội đầu, làm sạch gầu và tóc mượt.
“Họ Cà” trong thơ của Trần
Xuân Hòa gồm Cà, Cà Ba Thùy, Cà Chắc, Cà Chua, Cà Tím, Cà Dại Hoa Trắng, Cà Dại
Quả Đỏ, Cà Đắng Ngọt, Cà Độc Dược, Cà Độc Dược Cảnh, Cà Độc Dược Gai Tù, Cà Độc
Dược Lùn, Cà Gai, Cà Gai Leo, Cà Hai Hoa, Cà Muối, Cà Nà, Cà Nghét, Cà Pháo, Cà
Phê, Cà Vú Dê, Cà Xoắn (Ca Cao), Cà Trái Vàng, Cà Trời.
Trọng họ Cà có Cà Pháo:
“Cà Pháo ở chợ bán nhiều
Vừa ngọt tính lạnh nên yêu
mua về.
Chế ra nhiều món ngon ghê
Chống táo bón tốt thạo bề
tiêu viêm”
(Thơ
Trần Xuân Hòa)
Cà Rốt là Nữ hoàng của các
loại cà:
“Nữ hoàng Cà Rốt ở trần
gian
Suy nhược thần kinh sống
bàng hoàng
Từ trẻ tới già khi lâm
bệnh
Củ này quý lắm họ cao
sang”.
(Thơ
Trần Xuân Hòa)
“Họ Cau” trong thơ của
Trần Xuân Hòa có Cau, Cau Cành Vàng, Cau Chuột Ba Vì, Cau Chuột Bà Na, Cau
Chuột Nam Bộ, Cau Chuột Núi, Cau Lào, Cau Núi, kết với trầu không và vôi, gọi
là cơi trầu hoặc miếng trầu, làm cho “Thắm môi duyên thắm mặn mà”. “Ngẫm người
ăn cau lá trầu/ Sống trăm năm tuổi bạc đầu như tiên”.
Cần Tây cũng là loại cây
thông dụng. Khi nó vào thơ của Trần Xuân Hòa có tác dụng làm cho cơ thể bớt
béo, lợi tiểu, bổ thận, điều hòa khí huyết, thanh nhiệt, giảm ho. Nó thật sự là
một vị thuốc rất quý lại sang. Thế giới xem đó là “cây vàng mến yêu”.
“Họ Cỏ” vốn dĩ ít người để
ý đến, nhưng khi vào thơ của Trần Xuân Hòa trở thành loại cỏ có ích cho cuộc
sống con người. Ông đã viết một loạt bài thơ về “Họ Cỏ”: Cỏ Bướm, Cỏ Bướm Nhẳn,
Cỏ Bướm Tím, Cỏ Bướm Trắng, Cỏ Chè Vè, Cỏ Chè Vè Sáng, Cỏ Chét Ba, Cỏ Chông, Cỏ
Cò Ke, Cỏ Cứt Lợn, Cỏ Diệt Ruồi, Cỏ Dùi Chống, Cỏ Đắng, Cỏ Đấu Rìu, Cỏ Đầu Dìu
Hoa Nách, Cỏ Đậu Hai Lá, Cỏ Đuôi Chó, Cỏ Gà, Cỏ Gạo, Cỏ Gấu, Cỏ Gấu Ăn, Cỏ Gấu
Biển, Cỏ Kỳ Nhông, Cỏ Lá Tre, Cỏ Lá Xoài, Cỏ Lào, Cỏ Nết, Cỏ Luồng, Cỏ May, Cỏ
Mần Trầu, Cỏ Mật Gấu, Cỏ Mắt Nhăn, Cỏ Móng Ngựa, Cỏ Mủ, Cỏ Nến, Cỏ Nến Lá Hẹp,
Cỏ Ngọt, Cỏ Nhọ Nồi, Cỏ Phồng, Cỏ Quan Âm, Cỏ Roi Ngựa, Cỏ Rỏm, Cỏ Sán, Cỏ Seo
Gà, Cỏ Seo Gà Sẻ Nửa, Cỏ Sửa Hoa Không Cuống, Cỏ Sửa Lá Lớn, Cỏ Sửa Lá Nhỏ, Cỏ
Tai Hổ, Cỏ Tai Hùm, Cỏ Thạch Sùng, Cỏ Tháp Bút, Cỏ The, Cỏ Thi, Cỏ Thỏ, Cỏ Tim
Phòng, Cỏ Tóc Tiên, Cỏ Tranh, Cỏ Trói Gà, Cỏ Vàng, Cỏ Vắp Thơm, Cỏ Voi, Cỏ Voi
Lúa, Cỏ Xạ Hương,…
Có một cây cỏ mà các ông,
các bà đều biết, đó là Cỏ Nhọ Nồi. Khi Cỏ Nhọ Nồi biến thành thơ của Trần Xuân
Hòa đã trở thành cây thuốc quý, chữa được nhiều bệnh:
“Dạ dày bị máu nôn ra
Đi tiểu có huyết gọi là
nhiệt trong.
Tử cung ra máu màu hồng
Cũng là quá nhiệt nên cùng
uống ngay.
Đi lỵ, viêm mãn bệnh này
Trẻ em dinh dưỡng cây hay
nên dùng.
Ho lao, viêm họng ngứa
cùng
Đau mắt, răng miệng não
nùng ngoài da.
Bệnh nám, tóc rụng ông bà
Ù tai, cả ếchdêma hại
người.
Cầm máu lành lắm ai ơi
Còn chữa nhiều bệnh giúp
đời trần gian”.
(Thơ Trần Xuân Hòa)
Nói đến “Họ Dưa” là người
ta có cảm tình ngay. Trong thơ chữa bệnh bằng cây thuốc Nam, Trần Xuân Hòa đã
có tới chục bài thơ viết về “Họ Dưa”: Dưa Bở, Dưa Chuột, Dưa Chuột Dại, Dưa
Dại, Dưa Gang, Dưa Gang Tây, Dưa Hấu, Dưa Lông Nhím, Dưa Núi, …
Với Dưa Hấu, Trần Xuân Hòa
mô tả là loại quả ăn vào rất hiệu nghiệm:
“Ai mà bị bệnh máu cao
Bàng quang luôn nhiệt ăn
vào là hay.
Tiểu buốt viêm thận thũng
này
Vàng da đi tháo sốt này
men say.
Viêm họng phiền khát nở
này
Vỏ quả sao kỹ uống hay
tuyệt trần.
Dưa hấu xứng danh như thần
Chữa tạng giúp phủ chữ
quân thành tài.
Trị bệnh dễ như ăn chơi
Thiên địa cho đủ kiếp
người nhân gian”.
(Thơ Trần Xuân Hòa)
“Họ Đậu” vào thơ của Trần
Xuân Hòa một cách tự nhiên, xâu chuỗi: Đậu Bắp, Đậu Biếc, Đậu Biếc Lông Vàng,
Đậu Biển, Đậu Cánh Dơi, Đậu Chiếu, Đậu Cộ, Đậu Cờ, Đậu Dại, Đậu Đen, Đậu Cộ
Biển, Đậu Đén Thòng, Đậu Đỏ, Đậu Đũa, Đậu Gạo, Đậu Gió, Đậu Hà Lan, Đậu Hoa
Tuyến, Đậu Hoa Xoắn (Đậu Khắc Quả), Đậu Ma, Đậu Mèo, Đậu Mèo Lớn, Đậu Mèo Rừng,
Đậu Mỏ Neo, Đậu Mỏ Nhỏ, Đậu Muồng Ăn, Đậu Ngự, Đậu Răng Ngựa, Đậu Rồng, Đậu
Rựa, Đậu Săng (Đậu Chiều, Đậu Tắc), Đậu Tây, Đậu Tương, Đậu Tương Dại, Đậu Ván
Trắng, Đậu Vẩy Ốc, Đậu Xanh, Đậu Đén…
Trong “Họ Đậu” có Đậu
Xanh. Đậu Xanh vào thơ Trần Xuân Hòa trở thành vị thuốc bổ ích:
“Mùa xuân thường ăn đậu
xanh
Đề phòng ôn bệnh hết nhanh
sang hè.
Cảm cúm tiêu khát được che
Cồn cào trong bụng cháo mè
đậu nay.
Có thai nôn ọe ăn ngay
Giải nhiệt số nhất vỏ này
càng linh”.
(Thơ
Trần Xuân Hòa)
Có một thứ đậu mang tên
Đậu Dại, nhưng khi vào thơ của Trần Xuân Hòa thấy khôn lên, chẳng dại chút nào,
chữa được nhiều bệnh:
“Ho khan ho gió có đờm
Viêm đường hô hấp bồn chồn
chân tay.
Áp xe, đi lỵ sởi đây
Suy nhược cơ thể là hay
nên dùng”.
(Thơ Trần Xuân Hòa)
Có lần, nhà thơ thương
binh Trần Xuân Hòa hành quân qua Đất Lào, thấy trên đất Bạn có cây Mã Tiền mọc
lên như nấm. Trần Xuân Hòa thốt lên: “Đây là một vị thuốc quý” và ông bật lên
những câu thơ ca ngợi cây Mã Tiền:
“Ngày ấy hành quân qua đất
Lào
Rừng xanh suối vắng dưới
muôn sao.
Mã Tiền đất Bạn nhiều vô
kể
Chẳng biết bây giờ có
không nao?
Anh giải phóng quân chúng
tôi đi
Nhặt hạt Mã Tiền cất còn
ghi.
Sẽ làm thang thuốc ngâm
cồn bóp
Mỏi gối chống trùng theo
bước đi”.
(Thơ
Trần Xuân Hòa).`
Nghĩ đến cây ớt, ai cũng
cho là cay, nhưng khi vào thơ của Trần Xuân Hòa lại trở thành thành vị thuốc
quý:
“Dạ dày kích thích men
hồng
Chuyển máy xung huyết từ
trong ra ngoài.
Làm tiêu trị thũng mau vơi
Sát trùng lợi tiểu độc rồi
phải tan”.
(Thơ Trần Xuân Hòa)
“Họ Rau” trong thơ Trần
Xuân Hòa đã có hàng chục bài, đủ các thứ rau, ăn vào giúp cho cơ thể khỏe mạnh:
Rau Báo Rừng, Rau Bép, Rau Chua, Rau Cúc Sữa, Rau Diếp, Rau Diếp Dại, Rau Diếp
Đắng, Ra Diếp Đắng lá nhỏ, Rau Diếp Đắng Lá Răng, Rau Diếp Đắng Nhiều Đầu, Rau
Diếp Đắng Núi, Rau Dớn, Rau Dừa Nước, Rau Đắng, Rau Đắng Biển, Rau Đắng Đất,
Rau Đắng Lá Lớn, Rau Đắng Lông, Rau Đông, Rau Khúc, Rau Khúc Dưới Trắng, Rau
Khúc Nhiều Thân, Rau Lưỡi Bò, Rau Má (nhiều loại), Rau Mác, Rau Mát, Rau Mỏ,
Rau Mui, Rau Muối, Rau Muống, Rau Mương (các loại), Rau Muống, Rau Ngổ, Rau Cải
Bắp, Rau Cải Bẹ, Rau Cần, Rau Sắng,… Mỗi thứ rau được Trần Xuân Hòa mô tả trong
thơ, vừa là thức ăn, vừa là thuốc chữ bệnh rất tốt.
Có cây Rau Muống, một món
ăn thông dụng hằng ngày, khi vào thơ của Trần Xuân Hòa trở thành vị thuốc bổ,
là “cây rau của trời đất”:
“Chỉ biết từ cổ tới giờ
Có cây rau muống ăn no cả
ngày.
Nông thôn thành phố xưa
nay
Ai ai cũng biết thuộc này
muống ơi!
Đây là cây rau của trời
Đã ban vào đất cùng người
muôn năm.
Có ai ngộ độc thức ăn
Lá ngón ăn phải muống băng
giải liền”.
( Thơ Trần Xuân Hòa)
Có cây “Rau Sắng” đã được
nhà thơ Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu) mô tả:
“Muốn ăn rau sắng chùa
Hương
Tiền đò ngại tốn con
đường ngại xa.
Mình đi ta ở lại nhà
Cái dưa thì khú cái cà thì
thâm”.
(Thơ Tản
Đà – Nguyễn Khắc Hiếu)
Như vậy, Rau Sắng mọc ở
chùa Hương mà nhà thơ Tản Đà rất muốn ăn, nhưng vì ngại sợ tốn tiền đò, nên
đành ở lại nhà thì thấy cái cảnh “dưa khú cà thâm”.
Nay, qua thơ Trần Xuân
Hòa, chúng ta được biết Rau Sắng không chỉ mọc ở chùa Hương mà còn mọc ở Vũng Tàu
và nhiều nơi trên cả nước, ăn rất ngon và bổ, trở thành một trong những thứ rau
quý hiếm, thứ “canh may”. Bài thơ Rau Sắng:
“Bạch Dinh thành phố Vũng
Tàu
Có cây rau sắng chuyện lâu
bây giờ.
Hoa Sắng vị ngọt thơm tho
Mấy ai đã được mời cho rau
này.
Đói lòng ăn bát canh may
Coi như đã được vàng đầy
trong tay.
Lòng tôi ao ước bấy trầy
Muốn ăn để biết hoa này lá
rau”.
(Thơ
Trần Xuân Hòa)
Những
bài thơ “Kinh văn” viết về những áng văn kinh điển chữa bệnh và cũng là kinh
nghiệm chữa bệnh
Bên cạnh những bài thơ tả
về cây thuốc cũng như rau, củ, quả, Trần Xuân Hòa còn viết nhiều bài thơ về
“Kinh văn”, rút từ trong các sách Kinh văn để chữa bệnh, trong đó có sách “Y
tông kim giám”. Kinh văn còn viết về những áng văn kinh điển chữa bệnh để rồi
rút ra và thành thơ, nhưng cũng có thể xem đây là những kinh nghiệm chữa bệnh.
Kinh văn là những bài thơ mang tính chất kinh điển chữa bệnh. Lương y Trần Xuân
Hòa có 4 tập thơ Kinh văn. Trong Kinh văn, ông viết: “Phong khí đã sinh vạn
vật/ Vạn vật nhờ phong khí tồn luân/ Phong khí cũng diệt vạn vật/ Vạn vật không
thoát do phong/ Riêng con người ngũ tạng thông/ Khí tà vào người gây chết/ Cùng
ngàn bệnh tật ốm đau”. Và ông khuyên bệnh nhân nên năng rèn luyện, giữ gìn cơ
thể, có như vậy, tà khí mới không xâm phạm vào kinh lạc. Nhưng khi đã trúng
phong thì phải trị ngay, không để truyền vào tạng phủ. “Tứ chi thấy nặng nề
phải tập thở/ Châm cứu thuốc cao dán xoa bóp/ Nơi khí huyết trú ngụ không để bế
tắc/ Giữ bì phu và tạng phủ”.
“Thiên địa chia mùa luật
âm dương
Cho vạn vật sinh có lẽ
thường.
Biến hóa cũng còn nhiều
chênh lệch
Để thành nghịch khí đảo
cương cương”.
(Thơ Trần Xuân Hòa)
So với những bài thơ dân
dã viết về chữa bệnh bằng cây thuốc Nam, thì những bài thơ viết về Kinh văn của
Trần Xuân Hòa có phần trau chuốt hơn, mang tính tổng kết về bệnh.
“Kinh lạc phong thấp gây
nên
Tán tà thẩm thấm kinh trên
tụ này.
Ma hoàng, cam thảo, hạnh đây
Ý dĩ bốn vị bệnh thầy chỉ
cho”.
(Thơ
Trần Xuân Hòa)
Kinh văn mô tả mạch chứng
và cách chữa các bệnh. Lương y Trần Xuân Hòa cho rằng, nếu có ai đó mặt đỏ như
say, đó là vì nhiệt hun lên xông mặt. Mặt thuộc dương minh, vì khí thịnh thì
mặt đỏ như say, đó là vì nhiệt theo kinh xông lên mặt. Ông đưa ra 8 vị thuốc có
thể chữa được mặt đỏ, đó là Phục linh (4 lạng cho một thang thuốc), Tế tân (ba
lạng), Cam thảo (ba lạng), Ngũ vị tử (1/4 thang), Can khương (ba lạng), Bản hạ
(1/2 thang), Hạnh nhân (1/2 thang), Đại hoàng (ba lạng).
Trong Kinh văn, lương y
Trần Xuân Hòa nêu một căn bệnh tiêu khát, đó là bệnh uống nhiều nước, tiểu tiện
nhiều, ăn nhiều nhưng người vẫn gầy rốc.
Âm tính gây nên bệnh tiêu khát, khí xung lên tim, làm tim đau nóng, đó là hỏa
mộc sinh ra, can khí thâm nhập tim, không có nước ở thủy, nên thành bệnh tiêu
khát, thủy không đủ để ức chế hỏa, mà lại bị hỏa đốt cháy hết.
“Gặp mạch trầm có thủy
Thân thể phù nặng nề.
Bệnh thủy mạch xuất chết
Thân kiệt hết dương rồi”.
(Thơ Trần Xuân Hòa)
Căn bệnh này có thể dùng ô
mai hoàn, hoặc can khương, hoàng cầm, nhân sâm đều thích hợp.
Thơ Kinh văn của Trần Xuân
Hòa còn giải quyết các bệnh về tim mạch,
thận, gan, ruột, tì vị, tiền liệt tuyến và nhiều căn bệnh khác. Mỗi căn
bệnh, thơ đều nêu nguyên nhân phát sinh, phát triển của bệnh và chỉ ra cách
chữa.
Thơ viết về chất độc màu da cam
(dioxin)
Lương y Trần Xuân
Hòa có một tập thơ viết về chất độc màu da cam (dioxin). Trong “Thư gửi nạn
nhân da cam”, nhà thơ Trần Xuân Hòa viết:
“Nạn nhân chất độc da cam
Chúng tôi từ đất Việt Nam
thư này.
Kể từ năm ấy tới nay
Tính ra ba chục năm này da
cam.
Con cháu nhiễm độc trăm
ngàn
Quái thai dị dạng muôn vàn
đau thương.
Không sao nói hết nỗi buồn
Chúng tôi cùng bạn căm hờn
chiến tranh.
Đoàn kết giữ gìn hòa bình
Cùng các dân tộc để giành
tự do.
Hàn Quốc, Mỹ, Ôxtrâylia
Đài Loan, Philíp cùng là Di Lân.
Sinh con nhiễm độc dioxin
Nỗi đau cũng giống Việt
Nam lâu rồi.
Cùng vào cuộc chiến kéo
dài
Cùng ăn cùng ở vùng trời
Việt Nam.
Nay về tuy cách đại dương
Sinh ra nhiễm máu có nguồn
dioxin.
Chung đơn đi kiện bắt đền
Đòi Chính phủ Mỹ nhân
quyền chúng tôi.
Thông tin tất cả loại
người
Cấm chế chất độc hại đời
trần gian”.
(Thơ Trần Xuân Hòa)
Những dòng thơ mộc mạc
trên đây phản ánh nỗi thống khổ của những người Việt Nam nhiệm chất độc màu da
cam do cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ gây nên và yêu cầu bồi thường cho
những người bị chất độc màu da cam. Đọc những bài thơ của nạn nhân nhiễm chất
độc màu da cam Trần Xuân Hòa, chúng ta thấy cảm động vô cùng. Sự cảm động này
được thể hiện trong bức thư của Ban Chấp hành Hội nạn nhân chất độc màu da cam
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, gửi nạn nhân Trần Xuân Hòa: “Tuyển tập thơ đã thể hiện
tâm tư, tình cảm và tấm lòng nhân ái của ông đối với những nạn nhân chất độc da
cam/dioxin; lên án hành động của những kẻ đã gây nên các tội ác đối với người
dân Việt Nam nói riêng và loài người nói chung, đồng thời kêu gọi lương tri và
hành động của cộng đồng “Vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam”.
Nét đặc biệt, độc đáo
trong tập thơ của nạn nhân bị chất độc màu da cam Trần Xuân Hòa là ngoài những
bài thơ viết chung, còn có những bài thơ gửi cho từng con em bị nhiễm chất chất
độc màu da cam do ông, cha các cháu để lại và những bài thơ tặng chính những
người bị chất độc màu da cam, như em các Nguyễn Minh Hùng, Cao Thị Lan Phương,
Nguyễn Xuân Minh, Nguyễn Thị Thùy Giang, Lê Minh Thanh, Lý Minh Sơn, Trần Huỳnh
Thương, Trần Thị Vy, Minh Anh, Phạm Thành Tuấn, Vũ Đình Phú, Lê Sang Đại Lành,
Hồ Thị Phượng, Nguyễn Thị Nga, Đặng Thanh Minh, Hoàng Thị Hoa, Nguyễn Việt,
Phạm Thị Ngân, Phạm Thị Nhàn, Nguyễn Thị Tuyết, Trần Thảnh, Nguyễn Thị Vân; các
anh Nguyễn Đức Thức, Lê Đức Ngọt, Phạm Văn Quyến, Son Soát, Anh Ây, Lê Văn
Thanh; ông Hoàng Trung Cận; các chị Phạm Thị Xuân, Con Thị Giang; các con chị
Trương Thị Thủy, Phạm Thị Xuân Bốn, Lê Thị Thanh, Trương Thị Thùy; con ông
Nguyễn Thế Quang; các con anh Trần Anh Kiệt, Võ Tịnh và Hà Thị Điều và nhiều
người khác.
Cháu Phạm Thị Ngân viết
thư cho nhà thơ thương binh, lương y Trần Xuân Hòa: “Qua những vần thơ bác
viết, cháu đọc mà không cầm nổi nước mắt, bác ạ. Đúng như hoàn cảnh của mẹ con
cháu không sai chữ nào cả. Cháu xin được viết lại mấy câu đúng hoàn cảnh của
cháu bác nhé: “Sinh con chẳng biết nói cười/ Niềm vui tan tác bề ngoài hình
nhân/ Ăn, kêu, la hét suốt ngày…”. Tôi
cũng không cầm nổi nước mắt khi đọc những câu tiếp theo của cháu Phạm Thị Ngân:
“Chẳng biết buồn vui, nắng mưa, no đói thế nào cả. Ăn xong, đại, tiểu tiện tại
chỗ bác ạ. Chẳng có biết gì hết, nên cháu khổ tâm lắm bác ơi. Cháu rất buồn và
đã khóc nhiều lắm, khóc cả cuộc đời của cháu. Nếu không có người thân giúp đỡ,
chắc cháu cũng không thể vượt qua nổi. Không biết khi cháu già ốm đau để chăm
lo cha con cháu, sẽ sống ra sao. Các cháu thuộc nạn nhân ở thế hệ thứ ba, chẳng
được trợ cấp của Nhà nước cả, nên gia đình cháu gặp rất nhiều khó khăn trong
cuộc sống”.
Có một cháu, trong thư chữ mờ, không rõ tên,
viết thư cho bác Trần Xuân Hòa: “Bác ơi, số phận của mẹ con cháu thật trớ trêu
và bất hạnh. Cháu không được may mắn như bao nhiêu người khác. Gia đình cháu
tan nát. Nhà chồng thì hắt hủi chửi bới. Chồng cháu thì đánh đập mẹ con cháu và
đuổi đi mấy năm nay. Cháu phải dẫn con đi ăn xin kiếm sống qua ngày. Mẹ con
cháu gặp rất nhiều khó khăn, bác ạ. Hoàn cảnh của mẹ con cháu như vậy, cháu
không biết dựa vào ai và biết đi đâu. Con cháu thì bị bệnh quái ác của chiến
tranh để lại, không ai dám đến gần, gia đình chồng thì xa lánh. Mẹ con cháu
cũng chẳng được hưởng một chế độ nào của xã hội… Từ ngày cháu sinh con đến nay
đã được 16 năm, nhưng cháu không một ngày nào được sống hạnh phúc cả mà chỉ bị
đắm chìm trong đau khổ…”.
Tất cả nỗi đau của người
bị nhiễm chất độc màu da cam đã in hằn trong trái tim nhà thơ thương binh,
lương y Trần Xuân Hòa. Nỗi đau ấy đã biến thành thơ. Bài thơ “Đời người đau
khổ”, gửi Nguyễn Thị Tuyết, một người bị nhiễm dioxin, Trần Xuân Hòa viết:
“Thơ viết da cam quặn nỗi
đau
Đâu riêng cảnh cháu sống u
sầu.
Thư đến ngày đêm niềm tâm
sự
Bác đọc lệ rơi khóc nhớ
nhau.
Da cam bệnh nhiều toàn
quái ác
May nào phận bạc trắng đôi
tay.
Sinh ra tàn phế vì chất
độc
Tội của chiến tranh thê
thảm này”.
(Thơ
Trần Xuân Hòa).
Và đây là bài thơ “Tiếng
nói của lương tâm”:
“Các bác các anh của hành
tinh
Bà mẹ lương tâm trái tim
mình
Đã đến Việt Nam và ủng hộ
Hàn gắn đất này sau chiến
tranh.
Chúng tôi còn sống nhiễm
dioxin
Nói thay dị dạng sống nằm
yên
Tiếng kêu tiếng thét rung
trời đất
Xin đừng sản xuất dioxin.
Cám ơn tất cả triệu tấm
lòng
Bạn bè thế giới có lương
tâm
Xiết chặt cùng nhau đòi
công lý
Xòe bàn tay ấm chặn chiến
tranh.
Chúng ta cùng sống hưởng
thái bình
Xây dựng ấm no đẹp hành
tinh
Màu da nhân loại vì hạnh
phúc
Tất cả cùng nhau sống hòa
bình”.
(Thơ Trần Xuân Hòa)
Khép lại ba nghìn bài thơ
của nhà thơ thương binh, lương y Trần Xuân Hòa, chúng ta cảm nhận một điều được
in dấu ấn đậm trong trái tim, khối óc của ông là tình thương yêu vô bờ bến đối
với con người, nhất là những con người bị chất độc màu da cam. Ông muốn nói lên
tiếng lòng của mình đối với con người. Cầu cho con người được khỏe mạnh, không
bị chất độc da cam, đó là lương tri của nhà thơ thương binh, lương y Trần Xuân
Hòa.
Kính chúc nhà thơ thương
binh, lương y Trần Xuân Hòa sức khỏe để làm nhiều bài thơ hiến tặng cho người,
cho đời và cho cuộc sống!
Hà Nội, ngày 4 tháng 6 năm 2019