“NGỤC TRUNG NHẬT KÝ” (NHẬT KÝ TRONG TÙ) – MỘT KIỆT TÁC THƠ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, TẬP THƠ CHIẾN ĐẤU VÌ SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
PGS,TS
Đàm Đức Vượng
Trên
trang mạng gần đây xuất hiện bài “Hồ Chí Minh dứt khoát không phải là tác giả
của Ngục trung nhật ký, Hồ Chí Minh không phải là tác giả của Bản yêu sách của
nhân dân An Nam, Hồ Chí Minh cũng không phải là tác giả của Bản án chế độ thực
dân Pháp” của một người xa lạ, không biết và không nghiên cứu gì về thân thế và
sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tôi
đã có bài phân tích về tác giả của Bản yêu sách của nhân dân An Nam. Trong bài
này, tôi phân tích về tác phẩm Ngục trung Nhật ký (Nhật ký trong tù) của Hồ Chí
Minh, còn tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, tôi sẽ phân tích trong một bài
khác.
Tác
giả của bài Hồ Chí Minh không phải là tác giả của Ngục trung nhật ký, đưa ra
những dẫn chứng vu vơ, không xác thực, chủ yếu là dựa vào bài của Lê Hữu Mục:
“Hồ Chí Minh không phải là tác giả của Ngục trung nhật ký” đã bị dư luận xã hội
phê phán và các bài của một vài người khác, rồi nói thêm ra, đơm đặt một cách
ác ý, vô căn cứ. Tác giả bài này đã viết những câu xúc phạm đến Chủ tịch Hồ Chí
Minh mà tôi không tiện dẫn ra. Người viết bài này cho rằng, tác giả của Ngục
trung nhật ký là một đại úy (không dẫn tên viên đại úy này), người của Quốc dân
Đảng Trung Hoa bị buộc tội làm gián điệp cho quân đội Nhật, chứ không phải là
của Hồ Chí Minh. Đây là sự ngộ nhận, võ đoán, không có sự thật.
Chúng
ta đã có đủ cơ sở khoa học để khẳng định chắc chắn Ngục trung nhật ký là của Hồ
Chí Minh.
Thực
hiện Quyết định số 93-QĐ/TW, ngày 22-12-1994 của Ban Bí thư khóa VIII, về việc
xuất bản bộ “Hồ Chí Minh Toàn tập”, năm 1995, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia
Sự thật xuất bản lần thứ hai bộ Hồ Chí Minh Toàn tập, 12 tập (trước đó cũng đã
xuất bản lần thứ nhất bộ Hồ Chí Minh Toàn tập, 10 tập); sau đó, đến năm 2011,
bộ Hồ Chí Minh Toàn tập được xuất bản lần thứ ba, gồm 15 tập. Cả bộ Hồ Chí Minh
Toàn tập, 12 tập và bộ Hồ Chí Minh Toàn tập, 15 tập đều đăng đầy đủ các bài thơ
trong Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh. Trước khi xuất bản, tái bản bộ Hồ Chí
Minh Toàn tập, đều có họp Hội đồng Xuất bản để đối chiếu các tài liệu, thẩm
định về các văn kiện của Người. Ngục trung nhật ký được đưa ra thảo luận khá
kỹ, các chuyên gia chuyên nghiên cứu về Hồ Chí Minh đã đối chiếu với nhiều
nguồn tài liệu, văn bản và được khẳng định Nhật ký trong tù chắc chắn là của Hồ
Chí Minh, chứ không phải ai khác.
Tháng
8-1942, Nguyễn Ái Quốc lấy lên là Hồ Chí Minh, Người từ Cao Bằng, Việt Nam,
sang Trung Quốc với danh nghĩa đại biểu của Việt Nam Độc lập Đồng minh và Phân
bộ Quốc tế của Việt Nam chống xâm lược để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Sau
khi đến phố Túc Vinh, Thiên Bảo, một thị trấn thuộc huyện Tĩnh Tây, Quảng Tây,
Trung Quốc, Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam.
Trong hơn một năm, Người lần lượt bị giam trong khoảng 30 nhà tù của 13 huyện ở
tỉnh Quảng Tây.
Trong
thời gian này, Người đã viết tập thơ Ngục trung nhật ký bằng chữ Hán. Tập thơ
Ngục trung nhật ký gồm 134 bài (kể cả bài ở bìa ngoài), được ghi vào một cuốn
sổ tay, bìa màu xanh, trang đầu có hình hai cánh tay bị xích xiềng kèm theo 4
câu thơ:
“Thân
thể tại ngục trung
Tinh
thần tại ngục ngoại.
Dục
thành đại sự nghiệp
Tinh
thần cánh yếu đại”.
(Thân
thể ở trong lao
Tinh
thần ở ngoài lao.
Muốn
nên sự nghiệp lớn
Tinh
thần càng phải cao).
Trong
nguyên bản, bốn câu thơ này không có đầu đề, chép ở bìa ngoài tập thơ Ngục
trung nhật ký cùng hình vẽ hai tay bị xích xiềng, có lẽ được Người coi như một
lời đề từ cho toàn tập Ngục trung nhật ký.
Phía
trên cùng của tờ bìa ngoài ghi 4 chữ Hán: “Ngục trung nhật ký”.
Dòng
dưới đề là:
“29-8-1932
10-9-1933”.
Ngục
trung nhật ký viết năm 1942, nhưng trên tờ bìa lại đề ngày 28-8-1932 –
10-9-1933, qua nghiên cứu, tôi thấy có thể Người muốn ghi vào để nhớ lại một kỷ
niệm nào đó trong quãng thời gian Người bị bắt và vào tù lần thứ nhất từ năm
1931 đến năm 1933 tại Hồng Kông. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, dưới chế
độ thực dân, Người đã hai lần bị bắt và vào tù. Tuy nhiên, dưới bài thơ cuối
cùng của tập thơ Ngục trung nhật ký, bài “Kết luận” lại đề ngày
“29-8-1942-10-9-1943”, đúng với ngày, tháng đã ghi trên tờ bìa ngoài, chỉ khác
năm. Trong “Bách khoa Toàn thư mở - Wikipedia” viết rằng: “Để tránh rắc rối với
chính quyền Tưởng Giới Thạch, ở bìa đầu cuốn sổ (bản thảo của tập thơ – ĐĐV),
Hồ Chí Minh đã cẩn thận viết chệch thời gian sáng tác đi 10 năm (29-8-1932 – 10-9-1933,
nhưng đến cuối tập thơ, trang 53, trên chữ “Hoàn” (Hết), Hồ Chí Minh đã dùng
cùng một thứ chữ để ghi lại thời gian sáng tác chính xác: 29-8-1942 –
10-9-1943”.
Trong
lần xuất bản bằng tiếng Việt (dịch ra chữ Quốc ngữ), Người đã trực tiếp sửa lại
một số chữ, như “Thủ Dương”, Người chữa lại là “Thú Dương”. Thú Dương là tên
một ngọn núi thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.
Có
một bằng chứng xác thực nhất để khẳng định Ngục trung nhật ký là của Hồ Chí
Minh viết là trong tập thơ này, có nhiều bài thơ Hồ Chí Minh viết về các nhà tù
mà Người đã phải trải qua, như phố Túc Vinh, Tĩnh Tây, Thiên Bảo, Long Tuyền,
Điền Đông, Quả Đức, Ung Ninh, Nam Ninh, Vũ Minh, Bào Hương, Quả Đức, Long An,
Đồng Chính, Tân Dương, Quế Lâm, Thiên Giang, Lai Tân, Liễu Châu,… Chỉ có
Người mới trải qua hàng chục nhà lao ở tỉnh Quảng Tây và đã làm thơ ở các nhà
lao này. Người khác không qua hàng chục nhà tù trên, nên không thể có những vần
thơ như vậy:
“Túc
Vinh mà để ta mang nhục
Cố
ý dằng dai, chậm bước mình;
Bịa
chuyện tình nghi là gián điệp,
Cho
người vô cớ mất thanh danh”1.
(Bị
bắt ở phố Túc Vinh –
Hồ
Chí Minh: Ngục trung nhật ký)
“Trong
lao tù cũ đón tù mới
Trên
trời mây tạnh đuổi mây mưa;
Tạnh,
mưa, mây nổi bay đi hết,
Còn
lại trong tù khách tự do”.
(Vào
nhà ngục huyện Tĩnh Tây –
Hồ
Chí Minh: Ngục trung nhật ký)
“Nhà
nhà hoa kết với đèn giăng,
Quốc
khánh vui reo cả nước mừng;
Lại
đúng hôm nay ta bị giải,
Oái
oăm gió cản cánh chim bằng”.
(Tết
song thập bị giải đi Thiên Bảo –
Hồ
Chí Minh: Ngục trung nhật ký)
“Đôi
ngựa ngày đi chẳng nghỉ chân
Món
“gà năm vị”, tối thường ăn;
Thừa
cơ rét, rệp xông vào đánh,
Oanh
sớm, mừng nghe hót xóm gần”.
(Đêm
ngủ ở Long Tuyền –
Hồ
Chí Minh: Ngục trung nhật ký).
“Cháo
tù mỗi bữa chia lưng bát,
Cái
bụng luôn luôn rên rỉ sầu;
Cơm
nhạt ba đồng ăn chẳng đủ,
Củi
thì như quế, gạo như châu”.
(Điền
Đông - Hồ Chí Minh:
Ngục
trung nhật ký)
“Nhà
lao mà giống tiểu gia đình,
Gạo,
củi, muối, dầu tự sắm sanh;
Trước
mỗi phòng giam bày một bếp,
Suốt
ngày lụi hụi với cơm, canh”.
(Nhà
lao Quả Đức –
Hồ
Chí Minh: Ngục trung nhật ký)
“Làm
việc đúng thay Lưu sở trường
Ai
ai cũng bảo bác (Lưu – ĐĐV) công bình;
Đồng
tiền, bát gạo đều công bố,
Sạch
sẽ lao tù rất vệ sinh”.
(Sở
trường Long An họ Lưu -
Hồ
Chí Minh: Ngục trung nhật ký)
“Binh
mã thế nào Đồng Chính vậy,
Bữa
lưng bát cháo bụng cồn cào;
Nước
và ánh sáng thì dư dật,
Ngày
lại hai lần mở cửa lao”.
(Đồng
Chính -
Hồ
Chí Minh: Ngục trung nhật ký)
“Đáp
thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh
Lủng
lẳng chân treo tựa giảo hình;
Làng
xóm ven sông đông đúc thế,
Thuyền
câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh”.
(Giữa
đường đáp thuyền đi Ung Ninh -
Hồ
Chí Minh: Ngục trung nhật ký)
“Muôn
cay nghìn đắng đâu vô hạn,
Mồng
chín ta vừa đến Liễu Châu;
Ngoảnh
lại hơn trăm ngày ác mộng,
Tỉnh
ra, trên mặt vẫn vương sầu”.
(Đến
Liễu Châu –
Hồ
Chí Minh: Ngục trung nhật ký)
“Liễu
Châu, Quế Lâm lại Liễu Châu,
Đá
qua đá lại, bóng chuyền nhau;
Quảng
Tây đi khắp, lòng oan ức,
Giải
đến bao giờ, giải tới đâu?”.
(Hồ
Chí Minh: Ngục trung nhật ký)
Trong
Ngục trung nhật ký, người nói rõ:
“Ta
là đại biểu dân Việt Nam,
Tìm
đến Trung Hoa để hội đàm;
Ai
ngờ đất bằng gây sóng gió,
Phải
làm “khách quý” tại nhà giam”.
(Hồ
Chí Minh: Ngục trung nhật ký)
“Nhà
lao xây dựng kiểu tân thời,
Đèn
điện thâu đêm sáng rực trời;
Nhưng
mỗi bữa ăn lưng bát cháo,
Cho
nên cái bụng cứ rung hoài”.
(Nhà
ngục Nam Ninh –
Hồ
Chí Minh: Ngục trung nhật ký)
V.v..
Hồ
Chí Minh đi tới nhà ngục nào, làm thơ tại nhà ngục đó. Thơ rơi nước mắt, nhưng
tinh thần cách mạng, ý chí giải phóng dân tộc không bao giờ phai nhòa trong tâm
trí Người. Đó là cái tư chất cách mạng của Hồ Chí Minh.
Trên
đường giam cầm, Hồ Chí Minh đã được nhiều người giúp đỡ, điều này được thể hiện
trong một số bài thơ của Ngục trung nhất ký, trong đó có bài “Dương Đào bệnh
trọng”:
“Sóng
dậy đất bằng hỏi cớ sao,
Đẩy
anh vào ngục, anh Dương Đào;
Cháy
thành lây vạ, buồn khôn xiết,
Nay
lại thương anh mắc chứng lao”.
(Hồ
Chí Minh: Ngục trung nhật ký)
Dương
Đào là một nông dân ở biên giới Quảng Tây, người dẫn đường cho Hồ Chí Minh, bị
bắt và bị giam cầm cùng với Người. Sau khi Hồ Chí Minh ra tù được ít lâu, Dương
Đào cũng được ra tù và chết tại Liễu Châu vì bệnh lao. Hồ Chí Minh rất thương
tiếc người bạn tù, coi như anh em. Tháng 8-1963, Hồ Chí Minh đã mời 7 vị có
công giúp đỡ cách mạng Việt Nam ở hai huyện Tĩnh Tây và Na Pha, Quảng Tây, sang
thăm Việt Nam, trong đó có Dương Thắng Cường, em ruột Dương Đào. Dương Thắng
Cường nói với Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng, Dương Đào đã từng kể cho Dương Thắng
Cường nghe về Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã từng sáng tác thơ trong nhà tù của
Tưởng Giới Thạch.
Ngục
trung nhật ký không chỉ ghi lại những cảnh sinh hoạt trong tù, mà còn có ý
nghĩa tố cáo chế độ lao tù khắc nghiệt của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở Trung
Quốc.
Năm
1960, tác phẩm này được dịch từ chữ Hán sang chữ Việt. Đến nay đã được xuất bản
nhiều lần, dưới nhiều hình thức khác nhau. Tập thơ được dịch và giới thiệu ở
nhiều nước trên thế giới bằng thư pháp chữ Hán, Việt, Nhật Bản, Triều Tiên,
Lào,… Ngày 1-10-2012, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ra quyết định công nhận
bảo vật quốc gia cho tác phẩm Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù) của Hồ Chí
Minh.
Vấn
đề là như vậy. Mọi luận điệu xuyên tạc Ngục trung nhật ký cũng như những luận
điệu xuyên tạc, hạ thấp sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh đều phải phê phán và
bác bỏ.
------
1 Những bài thơ trích
dẫn trên đều rút từ trong Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 3.