Mới cập nhật

NHỮNG TRANG SỬ VẺ VANG CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT VIỆT NAM

 Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (18-11-1930 – 18-11-2020)  

PGS,TS Đàm Đức Vượng                        

      Mặt trận Tổ quốc Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt 

       Suốt 90 năm qua, kể từ khi Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam ra đời, gắn liền với những trang sử đấu tranh cách mạng vẻ vang của dân tộc ta do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập Mặt trận Dân tộc thống nhất lãnh đạo.

      Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị về việc thành lập “Hội Phản đế Đồng minh”, một hình thức Mặt trận đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Hội bao gồm rộng rãi các thành phần yêu nước, cứu nước như công hội, nông hội, hội phụ nữ, cộng sản thành niên đoàn, tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, thậm chí cả những địa chủ, những binh lính địch giác ngộ, đều có thể đoàn kết tập hợp họ lại vào trong hàng ngũ chống thực dân Pháp. Hội Phản đế Đồng minh có các tổ chức cơ sở hội, bao gồm rộng rãi các tầng lớp nhân dân tham gia. Với sự kiện trọng đại này, năm 1986, Bộ Chính trị đã có quyết định lấy ngày 18-11-1930 làm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam.

      Từ sau khi Hội Phản đế Đồng minh ra đời, Mặt trận mang nhiều tên khác nhau: Mặt trận Dân chủ Đông Dương (tháng 6-1936); Mặt trận Nhân dân Đông Dương (tháng 10-1936); Mặt trận Việt Minh (ngày 19-5-1941); Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam tức Mặt trận Liên Việt (29-5-1946); Mặt trận Liên Việt (mới) trên cơ sở sáp nhập Mặt trận Việt Minh và Mặt trận Liên Việt (3-3-1951); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (5-9-1955).

      Như vậy, từ năm 1930 đến nay, nước ta đã thành lập 7 mặt trận (hội),  gọi chung là Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam.

      Có thời điểm Việt Nam có hai mặt trận: Mặt trận Việt Minh và Mặt trận Liên Việt. Cả hai mặt trận này đều tồn tại và hoạt động song song với tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước không đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, tín ngưỡng, xu hướng chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam được độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường.

      Khi tình hình đất nước có thay đổi, dứng trước nạn ngoại xâm mới, thì Mặt trận lại mang tên mới, với hình thức hoạt động mới, phù hợp với nhiệm vụ chính trị của mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau và cũng là để triển khai thực hiện đường lối và chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam..

      Mặt trận Dân tộc thống nhất đã đi theo con đường cách mạng chân chính, phát huy chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, cùng toàn dân chiến đấu và phấn đấu hoàn thành sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một trong những tình cảm đặc sắc nhất đã tồn tại trong lòng dân tộc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Khi được ngọn gió của Cách mạng tháng Tám năm 1945 thổi vào, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trở thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

      Tư tưởng của Mặt trận là đại đoàn kết toàn dân tộc. Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành biểu tượng và phẩm chất yêu nước và cách mạng sáng ngời của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam.       

      Đoàn kết là vấn đề sống còn của dân tộc khi đất nước ở vào tình thế “nghìn cân treo sợi tóc” (1945-1946), khi thù trong giặc ngoài “đông như ruồi muỗi”, điên cuồng chống phá nhà nước cách mạng còn non trẻ.

      Ngày 25-4-1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, có bài nói tại Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ hai về vấn đề đại đoàn kết. Người nói:

     “Năm 1951, cuộc kháng chiến của chúng ta tuy gặp những điều kiện cực kỳ gay go, nhưng trong cuộc Đại hội hợp nhất Việt Minh – Liên Việt, tôi có nói:

      Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,

      Thành công, thành công, đại thành công”.

      Những thắng lợi chúng ta giành được trong mấy năm qua đã chứng thực điều đó. Ngày nay, đồng bào miền Bắc thì hăng hái thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng bào miền Nam ruột thịt thì anh dũng phấn đấu giành dân chủ tự do, vậy để kết luận, tôi xin phép nhắc lại:

     Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,

     Thành công, thành công, đại thành công”..

    Một chiếc đũa có thể bẻ gãy, nhưng một bó đũa thì không thể bẻ gãy. “Từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối, thành sông. Biết bao nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại mới thành biển cả”1. Đó là sức mạnh của tư tưởng trở thành sức mạnh đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

      Đoàn kết trong khuôn khổ một nước đã khó, đoàn kết mở rộng ra phạm vi quốc tế càng khó. Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương không chỉ nhằm đoàn kết dân tộc mà còn nhằm đoàn kết quốc tế, nhất là đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) thành một khối thống nhất, cùng nhau đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Tinh thần đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia và bầu bạn quốc tế là chân thành và tôn trọng lẫn nhau.

      Việc thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm thực hiện liên minh công nông trên cơ sở đại đoàn kết toàn dân tộc. Tầng lớp (đội ngũ) trí thức Việt Nam có điều kiện thuận lợi tham gia Mặt trận với tư cách là công dân và trí thức.

      Việc thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất mang ý nghĩa dân chủ, mang nhiều tiếng nói khác nhau vào trong Mặt trận, cùng nhau bàn việc nước, để rồi có tiếng nói thống nhất trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.       

      Hoạt động của Mặt trận mang tính chất hiệp thương, thể hiện ở chỗ khi liên hệ công tác với các tổ chức, đoàn thể, với các thành viên của Mặt trận, thì bao giờ Mặt trận cũng bàn bạc trên tinh thần dân chủ, tôn trọng nhau, thật sự cầu thị. Hiệp thương thể hiện ở chỗ hợp tác và thương lượng, không gò bó, không áp đặt, không trịch thượng. Vì vậy, xét cho cùng, hiệp thương cũng là dân chủ.

      Hoạt động của Mặt trận mang tinh thần hợp tác, bình đẳng. Các tổ chức thành niên của Mặt trận có rất nhiều như Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Phật giáo Việt Nam, Ủy ban đoàn kết công giáo, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam,… Tất cả các tổ chức thành viên của Mặt trận đều hoạt động mang tinh thần hợp tác, bình đẳng, cùng nhau làm việc, cùng nhau học tập, cùng nhau nghiên cứu, giúp đỡ lẫn nhau vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

      Hoạt động của Mặt trận mang tính chất phối hợp và thống nhất hành động. Mặt trận không bao giờ hoạt động riêng rẽ, “một mình”, mà có sự phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân, cùng nhau hành động vì lợi ích chung của dân tộc. Chính nhờ có phối hợp hành động nên nó đã tạo thành sức mạnh vô dịch, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là bản chất cách mạng và khoa học của Mặt trận trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

      Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là thành viên của Mặt trận. Khi lãnh đạo, Đảng vạch đường lối cho Mặt trận thực hiện. Khi là thành viên của Mặt trận, Đảng và các đảng viên của Đảng thực hiện nghị quyết của Mặt trận và triển khai các công việc của Mặt trận.

      Hoạt động của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam gắn liền với những chặng đường vẻ vang của cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam.