CÁCH MẠNG THÁNG TÁM – CUỘC CÁCH MẠNG MANG TẦM VÓC THỜI ĐẠI
PGS,TS Đàm Đức Vượng
Cách
mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra ở Việt Nam là một cuộc Cách mạng mang
tính thời đại và tinh thần dân tộc mãnh liệt, mở ra trang lịch sử hào
hùng của dân tộc. Nó đã đập tan chính quyền của thực dân và phong kiến,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam Á, đưa nhân dân ta từ người nô lệ thành người chủ thực sự của
đất nước, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đưa nước ta từ một nước
thuộc địa, nửa phong kiến thành một nước độc lập và dân chủ nhân dân,
đưa Đảng ta từ một đảng hoạt động không hợp pháp, thành một đảng hoạt
động hợp pháp, nắm chính quyền trong cả nước, đưa dân tộc ta tiến lên
hàng đầu các dân tộc tiên phong trên thế giới. Rõ ràng, Cách mạng tháng
Tám đã mở ra trang sử mới cho nhân dân Việt Nam, trang sử hào hùng của
dân tộc.
Sáng
19/8/1945, người dân Hà Nội và các tỉnh lân cận kéo về quảng trường Nhà
Hát Lớn Hà Nội, dự lễ mít tinh hưởng ứng cuộc Tổng khởi nghĩa giành
chính quyền. (Ảnh tư liệu TTXVN)
Cách
mạng tháng Tám thành công năm 1945 là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa
Mác – Lênin ở một nước thuộc địa và nửa phong kiến, góp phần mở ra một
thời kỳ sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa
đế quốc thế giới.
Cách
mạng tháng Tám thành công chứng tỏ rằng, trong thời đại ngày nay, một
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân và đội
tiên phong là Đảng Cộng sản lãnh đạo, hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở
một nước thuộc địa bị ách thực dân, đế quốc thống trị xâm lược.
Cách
mạng tháng Tám thắng lợi đã đánh thẳng vào dinh lũy của chủ nghĩa thực
dân, đế quốc, làm đứt tung một khâu yếu nhất trong chuỗi xích của chủ
nghĩa thực dân, đế quốc, mở đường cho cách mạng giải phóng dân tộc phát
triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước nông nghiệp lạc hậu,
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
Thành
công của Cách mạng tháng Tám đánh dấu mốc son chói lọi của nghệ thuật
lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, một
đảng mới 15 tuổi (1930-1945) đã lãnh đạo cách mạng thành công, giành
chính quyền trong cả nước; là cuộc khởi nghĩa vĩ đại của nhân dân ta, là
sự kết hợp tài tình đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, một
cuộc nổi dậy chưa từng có cả ở thành thị lẫn nông thôn mà đòn tiến công
quyết định là cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn.
Cách
mạng tháng Tám bắt đầu từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, họp từ ngày
10 đến ngày 19-5-1941, tại rừng Khuổi Nậm, thôn Pác Bó, huyện Hà Quảng,
tỉnh Cao Bằng, tháng 5-1941, do Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Quốc tế Cộng
sản, chủ trì, với sự tham gia của các đồng chí Trường Chinh, quyền Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, Hoàng Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt là Ủy
viên Thường vụ Trung ương Lâm thời Đảng Cộng sản Đông Dương,...
Hội
nghị họp vào giữa lúc tình hình chính trị thế giới đầy biến động. Ở
những nơi xa xôi như Cao Bằng, các đại biểu dự Hội nghị cũng nhận được
những tin tức về việc Đức ký hòa ước với Anh, lôi kéo Anh – Mỹ vào khối
liên minh chống Liên Xô. Tình hình khẩn cấp đến nỗi chỉ một tháng sau
đó, phátxít Đức bắt đầu tấn công Liên Xô. Thái độ của Mỹ, Anh lúc đó bộc
lộ rất rõ: Nếu Đức thắng, họ sẽ giúp Nga, nếu Nga thắng thì sẽ giúp
Đức. Âm mưu của họ là muốn để cho hai nước Đức, Nga chém giết lẫn nhau
nhiều chừng nào hay chừng ấy. Điểm nút thắt là ở chỗ tập đoàn phátxít –
đế quốc muốn cho Liên Xô thất bại, nhằm thủ tiêu chế độ Xôviết.
Trước
tình hình nghiêm trọng xảy ra trên thế giới như vậy, Hội nghị thảo luận
kỹ về tình hình quốc tế. Trung ương nhận định thấy rằng sự giống nhau
giữa Chiến tranh thế giới thứ nhất với Chiến tranh thế giới thứ hai là ở
chỗ sự xâu xé quyền lợi giữa hai phe đế quốc (Đức, Ý, Nhật - Mỹ, Anh,
Pháp), cả hai phe đều tham lam giành giật thuộc địa và thị trường của
nhau. Cái chung giống nhau của họ còn thể hiện ở chỗ bắt các nước thuộc
địa cung cấp nhân lực, tài lực, phục vụ cho chiến tranh và thẳng tay đàn
áp phong trào cách mạng.
Hội
nghị nhận định rằng, nếu Chiến tranh thế giới thứ nhất là một tiền đề
dẫn đến Cách mạng tháng Mười Nga, thì Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ là
một tiền đề dẫn đến thắng lợi của nhiều cuộc cách mạng mới ở các nước
thuộc địa và phụ thuộc.
Về
tình hình Đông Dương, Hội nghị nhận định rằng, từ khi khói lửa Chiến
tranh thế giới thứ hai lan rộng, Đông Dương bị Pháp lôi cuốn vào vòng
chiến , gây sự đổ nát về kinh tế và rối loạn về xã hội.
Mối
đe dọa của Pháp đang còn chống chất, thì bàn tay tàn bạo của phátxít
Nhật đối với nhân dân Đông Dương ngày càng bóp chặt(1). Nhật tăng cường
lục lượng quân sự trên bán đảo Đông Dương, hòng thôn tính Đông Dương.
Chống
lại chính sách thực dân, phátxít ở Đông Dương, Nghị quyết của Hội nghị
nêu rõ các dân tộc ở Đông Dương chỉ có một con đường đoàn kết chống kẻ
thù chung, giành độc lập dân tộc cho mỗi nước. Muốn vậy, các dân tộc
Đông Dương phải tập hợp được các lực lượng, không phân biệt thợ thuyền,
dân cày, phú nông, địa chủ, tư sản bản xứ, lương, giáo,… bất kỳ ai có
lòng yêu nước, thương nòi, cần tập hợp dưới lá cờ cứu nước, đánh đuổi
Nhật, Pháp xâm chiếm Đông Dương, giành độc lập cho các dân tộc ở Đông
Dương.
Riêng
đối với dân tộc Việt Nam, sau khi đánh đuổi Pháp, Nhật “sẽ thành lập
một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền
cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của giai
cấp nào mà là của chung của toàn thể dân tộc…”(2). Dân tộc Việt Nam cần
đoàn kết chặt chẽ với các dân tộc khác trên bán đảo Đông Dương, giúp đỡ
nhau về tinh thần và vật chất trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của
mỗi nước. Nghị quyết của Hội nghị quyết định khởi nghĩa vũ trang trong
toàn thể các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, trong đó có Việt Nam. Muốn
có đủ lực lượng để khởi nghĩa vũ trang trong toàn quốc, Đảng Cộng sản
Đông Dương phải mở rộng và củng cố các tổ chức cứu nước, vũ trang bằng
những phương tiện có thể có để tiêu diệt kẻ thù xâm lược trên bán đảo
Đông Dương.
Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 8 nhấn mạnh đến vấn đề giữ chính sách dân
tộc, đại đoàn kết, vì chính sách ấy “hợp với nguyện vọng của toàn thể
nhân dân, hợp với nguyện vọng của các giai cấp, các dân tộc ở Đông
Dương, hợp với cuộc tranh đấu chung của toàn thế giới chống phát xít và
xâm lược, cuộc cách mạng Đông Dương mới thành công chắc chắn được”(3).
Để đoàn kết toàn dân đấu tranh, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh vào ngày 19-5-1941, ngày bế mạc Hội nghị.
Hội
nghị bầu Ban lãnh đạo mới của Đảng. Ban Thường vụ Trung ương ương gồm
Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, do Trường Chinh làm Tổng
Bí thư.
Sau
Hội nghị Trung ương tháng 5-1941, mọi công tác chuẩn bị khởi nghĩa được
tiến hành gấp. Ngày 23-3-1945, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương ra Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”(4), do
Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp soạn thảo. Tư tưởng chỉ đạo có tính
chất bao trùm của Chỉ thị thực chất là chương trình hành động cách mạng
của nhân dân ta. Cần hành động ngay, hành động kiên quyết, nhanh chóng,
sáng tạo, chủ động, táo bạo, không chịu bó tay khi tình thế biến chuyển
thuận lợi, đẩy mạnh cao trào kháng Nhật, cứu nước tiến đến tổng khởi
nghĩa. “Thắng lợi cuối cùng nhất định về tay chúng ta!”(5).
Cùng
với Chỉ thị là Hiệu triệu của Việt Minh kêu gọi đồng bào cả nước đứng
lên chống Nhật (sau khi Pháp đã đầu hàng) bằng các hình thức biểu tình,
thị oai, bãi công, bãi thị, bãi khóa, phá đường giao thông, kho tàng,
đánh đồn, chặn các đội quân tuần tiễu của Nhật, chặn bàn tay của của
chúng lại, không để cho chúng tác oai, tác quái. Toàn dân tuốt gươm,
chĩa súng, giết giặc, trừ gian, dựng lên một nước Việt Nam độc lập và tự
do.
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, sự chỉ đạo kịp thời của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc và Tổng Bí thư Trường Chinh, khắp các địa phương đã
nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân, dẫn đến thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám năm 1945 tại Việt Nam.
“Tuyên
ngôn độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo và đọc tại Lễ độc lập ở
vườn hoa Ba Đình, Hà Nội, chiều ngày 2-9-1945, đã chính thức tuyên bố
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam) ra đời.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình,
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Sau
Cách mạng tháng Tám, đất nước phải trải qua 9 năm kháng chiến chống
Pháp và 20 năm chống Mỹ xâm lược, cuối cùng đã giành được độc lập, tự
do, giang sơn thu về một mối. Từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến
lên cách mạng xã hội chủ nghĩa như ngày hôm nay.
------
1.Theo báo “Đông Pháp” số 4615, ngày 1-10-1940, thì tiền Nhật tràn ngập thị trường Đông Dương, lấn át cả tiền Đông Dương. Theo bản tin ở “Đông Dương ngân hàng”, thì bán 100 đồng Đông Dương lấy 96,5 đồng Yên của Nhật, còn mua 100 đồng Đông Dương lấy 98 đồng Yên.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr. 114.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr. 115.
4. Xem “Văn kiện Đảng Toàn tập”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr. 364.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr. 373.