Mới cập nhật

Về Tổng Bí thư Trường Chinh

 GS,TS Đàm Đức Vượng

 

Trên trang mạng gần đây xuất hiện một số bài viết của những người khác chính kiến đả kích vào các nhà lãnh đạo tiền bối của Đảng và Nhà nước ta. Họ bôi nhọ các vị đó bằng đủ mọi cách. Một trong những người bị họ đả kích nhiều nhất là Tổng Bí thư Trường Chinh với bài viết: “Trường Chinh”, vu cáo ông là một nhà lãnh đạo giáo điều, như viết: “Sau khi Lê Duẩn chết, Trường Chinh lên làm Tổng Bí thư. Ông vốn là một lãnh tụ nổi tiếng giáo điều. Ngay cái biệt hiệu của ông cũng nói lên đầu óc sùng bái họ Mao. Cũng trên cương vị Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, hồi những năm 50, Trường Chinh đã lãnh đạo cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức ở nông thôn miền Bắc rập khuôn theo hình mẫu Trung Quốc và đã đem lại tai họa cho nhân dân”…

Những nội dung của bài viết trên đây là xuyên tạc về thân thế và sự nghiệp của Tổng Bí thư Trường Chinh. Tôi thấy cần phải trao đổi lại cho rõ.

Trước hết, cần phải nói ngay rằng, Tổng Bí thư Trường Chinh không phải là người giáo điều, mà là một nhà cách mạng chân chính, trung thành, đổi mới, sáng tạo, một học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông cũng không phải là người theo Mao Trạch Đông, mà là một người hoạch định đường lối và rất trung thành với với đường lối của Đảng. Biệt hiệu của ông mang tên “Trường Chinh” cũng không phải là đầu óc sùng bái họ Mao, mà là ‘đi xa vì nghĩa lớn”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Trường Chinh, năm 1961 (Ảnh tư liệu)

Trường Chinh, quyền Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương 1940-1941; Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương 1941-1951; Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam 1951-1956; Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 7-1986 đến tháng 12-1986.

Đặng Xuân Khu (từ năm 1941, lấy tên là Trường Chinh); sinh ngày 9-2-1907, tại làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, trong một gia đình trí thức khoa bảng.

Thuở nhỏ, Đặng Xuân Khu sống cùng gia đình. Năm 1923, vào học Trường Thành chung Nam Định. Học được ít lâu, Đặng Xuân Khu nổi tiếng là thông minh, trội lên ở các môn học tiếng Việt, tiếng Pháp, lịch sử, văn học. Ông rất nhạy bén về những vấn đề về chính trị và thời cuộc. Tại Trường Thành chung, Đặng Xuân Khu đã tham gia cuộc bãi khóa năm 1926, tham gia truy điệu cụ Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh). Năm 1927, Đặng Xuân Khu lên Hà Nội, làm đơn xin thi vào Trường Cao đẳng Thương mại Đông Dương, được nhận vào học với điểm số cao. Tuy học về chuyên môn thương mại, nhưng Đặng Xuân Khu lại chú ý đến nhiều hơn đến vấn đề xã hội. Ông dành thời gian đọc các sách, báo yêu nước và cùng với các sinh viên khác tiến hành những hoạt động yêu nước.

Năm 1928, Đặng Xuân Khu kết hôn với Nguyễn Thị Minh, một người con gái rất đẹp, cùng quê, gia đình nền nếp, gia giáo. Sống chung tình, họ sinh được bốn người con, trong đó có người con trưởng là Giáo sư Đặng Xuân Kỳ.

Năm 1928, Đặng Xuân Khu gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên

 (Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chi Hội, gọi tắt là Thanh niên). Năm 1929, ông gia nhập Đông Dương Cộng sản Đảng, được Đảng giao cho  hoạt động trong Ban Tuyên truyền Đông Dương Cộng sản Đảng. Ông hăng hái nhận nhiệm vụ, tích cực vận động giới trí thức, sinh viên và binh lính địch; liên hệ với công nhân xưởng in giúp ông chuẩn bị in một tờ báo để tuyên truyền trong sinh viên, học sinh. Tổng hội Sinh viên được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 9-1929, ra báo “Người Sinh viên” do ông làm Chủ bút.

Công việc cách mạng ngày càng dồn dập với Đặng Xuân Khu. Ông muốn cống hiến ngày càng nhiều hơn cho cách mạng, muốn trở thành nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp. Vì vậy, vào cuối năm 1929, ông quyết định thôi học tại Trường Cao đẳng Thương mại Đông Dương để đi hoạt động cách mạng chuyên nghiệp.

Khi Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc sáng lập vào ngày 3-2-1930, Đặng Xuân Khu đã gia nhập Đảng, trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 10-1930, tại Hội nghị Trung ương lần thứ nhất họp ở Hương Cảng (Hồng Kông), Đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Đặng Xuân Khu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương.

Sự khủng bố của thực dân đối với các đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương ngày càng ác liệt. Ngày 14-11-1931, Đặng Xuân Khu bị mật thám Pháp bắt tại chân Cột Cờ, Hà Nội, trong lúc đang đợi một đảng viên Đảng Cộng sản Pháp tên là Lơcom để lấy cuốn sách “Chúng chuẩn bị chiến tranh như thế nào” từ Pháp gửi sang. Sau khi bị bắt, ông bị giam tại nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội, chịu những đòn tra tấn khủng khiếp, chết đi sống lại, xích chân, trói tay, nhưng ông nhất định một mực không khai, kiên quyết bảo vệ tổ chức đến cùng. Ngày 28-9-1931, Tòa án thực dân Pháp mở phiên tòa xử Đặng Xuân Khu và 40 chiến sĩ cách mạng khác. Ông bị kết án 12 năm cấm cố, vì tội làm truyền đơn cổ động phong trào cách mạng và vận động binh lính Pháp làm sách cấm, nhận sách cấm. Tuyên án xong, ông tiếp tục bị giam tại nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội, mang số tù 98290. Tại Hỏa Lò, ông bí mật viết bài cho “Lao tù Tạp chí” và nghĩ đến việc đào tạo cán bộ trong tù để khi ra tù có thể tiếp tục hoạt động ngay. Tháng 2-1933, Đặng Xuân Khu cùng hơn 200 tù cộng sản và tù Quốc dân Đảng ở nhà tù Hỏa Lò bị đày lên giam tại nhà tù Sơn La. Trong những ngày bị giam cầm tại nhà tù Sơn La, Đặng Xuân Khu rất kiên trì học tập, say mê nghiên cứu lý luận. Ông tham gia vào Ban lãnh đạo nhà tù, cùng với những chiến hữu đấu tranh chống chế độ lao tù khắc nghiệt. Những tài liệu mà ông bí mật mang theo, nay mang ra huấn luyện cho anh em tù chính trị, có tác dụng tốt.

Trước sự đấu tranh của nhân dân ta và được sự ủng hộ của Mặt trận Nhân dân Pháp (còn gọi là Mặt trận Bình dân Pháp), năm 1936, nhiều tù chính trị bị giam ở các nhà tù Côn Đảo, Hỏa Lò, Sơn La, … được ân xá. Ngày 29-9-1936, Đặng Xuân Khu ra tù, trở về tiếp tục hoạt động cách mạng. Ra tù, Đặng Xuân Khu trở về quê hương một thời gian, rồi ra Hà Nội tiếp tục hoạt động. Tại Hà Nội, Đặng Xuân Khu tìm cách liên lạc với tổ chức và được tổ chức phân công làm báo “Lơ Travai” (Le Travail), trong Ban Biên tập, một tờ báo cách mạng bằng tiếng Pháp duy nhất lúc đó, xuất bản công khai.

Một thời gian sau, Đặng Xuân Khu tham gia Xứ ủy Bắc Kỳ, làm Giám  chính trị các tờ báo “Tin tức”, “Đời nay”; tham gia thành lập Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ, với bút danh Qua Ninh, cùng với Khuất Duy Tiến với bút danh Tô Dân viết tác phẩm “Một dự án cải cách thuế thân”. Với cương vị Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ, ông đã giải quyết những vấn đề nội bộ, mang lại sự đoàn kết thống nhất, góp phần quan trọng vào việc củng cố tổ chức trong nội bộ Đảng.

Hội nghị Trung ương tháng 11-1940 đã thảo luận khá kỹ về tình hình Đông Dương và nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương. Tại Hội nghị này, các đồng chí Đặng Xuân Khu, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt được bầu vào Ban Thường vụ Trung ương Lâm thời. Đặng Xuân Khu được phân công làm quyền Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương thay Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã bị địch bắt ngày 17-1-1940 và sau đó đã bị chính quyền thực dân xử bắn.

Hội nghị Trung ương chính thức của Đảng họp từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, tại rừng Khuổi Nậm, thôn Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, còn gọi là Hội nghị Trung ương 8. Dự Hội nghị có Nguyễn Ái Quốc, đại diện Quốc tế Cộng sản và các đồng chí Đặng Xuân Khu, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt… Hội nghị quyết định khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân, thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tức cách mạng dân tộc dân chủ (sau bổ sung là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân). Hội nghị nhất trí bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức. Ban Thường vụ Trung ương chính thức gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, do Trường Chinh làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương.

Hội nghị bế mạc ngày 19-5-1941. Cũng lấy ngày này là ngày thành lập Mặt trận Việt Minh.

Về xuôi, Tổng Bí thư Trường Chinh xây dựng lực lượng cách mạng trong cả nước, chuẩn bị tổng khởi nghĩa; trực tiếp chỉ đạo xây dựng “An toàn khu – Khu an toàn – ATK”; mở các lớp huấn luyện chính trị, quân sự.

Năm 1944, phátxít Nhật nhảy vào Đông Dương, gây nên một cổ hai tròng đối với nhân dân ta, Nhật và Pháp. Vào Đông Dương, Nhật hất cẳng Pháp, thống trị Đông Dương.

Sang năm 1945, cục diện Chiến tranh thế giới thứ hai bước tới giai đoạn quyết liệt và quyết định thắng bại.

Tình hình Đông Dương lúc này nóng rát. Trường Chinh dự đoán “cái nhọt bọc” đã đến lúc phải “vỡ mủ”. Không thể chậm trễ, ông gấp rút triệu tập Hội nghị Thường vụ Trung ương mở rộng, trực tiếp soạn thảo Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Nhân thời cơ này, Hội nghị chủ trương phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa sắp nổ ra.

Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập “Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc” để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa toàn dân sau khi nhận tin Nhật đầu hàng Đồng Minh, Ủy ban khởi nghĩa gồm Tổng Bí thư Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị, Chu Văn Tấn, do Trường Chinh trực tiếp phụ trách. Vào lúc 11 giờ đêm 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh tổng khởi nghĩa trong cả nước.

Tiếp đó, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 15-8-1945, tại xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Tham dự Hội nghị có đủ đại biểu Đảng bộ Bắc, Trung, Nam, một số đại biểu ở nước ngoài, đại biểu các khu giải phóng và đại biểu các chiến khu. Các nhà lãnh đạo: Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng1, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng,… đến dự và chỉ đạo Hội nghị.

Hội nghị quyết định Đảng phải kịp thời phát động và lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa để giành chính quyền từ tay Nhật xâm lược Đông Dương và những phần tử làm tay sai cho Nhật, trước khi quân Đồng Minh vào Việt Nam. Nghị quyết của Hội nghị đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, Tổng Bí thư Trường Chinh dự Đại hội quốc dân Tân Trào họp từ ngày 16 đến ngày 17-8-1945, tại xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

Đại hội nhất trí cao chủ trương khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Lệnh khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh và tán thành 10 chính sách của Tổng bộ Việt Minh. Đại hội quy định Quốc kỳ là Cờ đỏ, giữa có sao vàng năm cánh, Quốc thiều là bài “Tiến quân ca” và cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng, gồm các vị: Hồ Chí Minh, Chủ tịch; Trần Huy Liệu, Phó Chủ tịch và các vị ủy viên: Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp…

Đại hội quốc dân Tân Trào thể hiện sự đoàn kết nhất trí của nhân dân Việt Nam trong Mặt trận Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trường Chinh làm Tổng Bí thư. Đại hội nói lên tinh thần dựa vào sức mình là chính và ý chí quyết chiến quyết thắng của nhân dân Việt Nam.

Sau Đại hội toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân Tân Trào, không khí khởi nghĩa bùng lên trong cả nước. Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi ngày 19-8-1945. Các tỉnh, thành phố đều được giải phóng.

Sau khi Hà Nội được giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh và Trung ương nhanh chóng trở về Hà Nội để chỉ đạo phong trào cách mạng.

Có thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn của Cách mạng tháng Tám và Tổng Bí thư Trường Chinh là kiến trúc sư của Cách mạng tháng Tám.

Ngày 2-9-1945, Tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tổng khởi nghĩa thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh và Trung ương, Chính phủ tiếp tục lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp. Lúc này, Nhật đã đầu hàng Đồng minh, thực chất là đầu hàng nhân dân ta. Cả nước lên đường kháng chiến. Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh tạm rời Hà Nội lên Việt Bắc, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến.

Trong kháng chiến chống Pháp, Tổng Bí thư Trường Chinh viết tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” và nhiều văn kiện quan trọng khác.

Tại Đại hội II Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Đại hội thảo luận và thông qua “Báo cáo chính trị” do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày; thảo luận và thông qua Báo cáo “Hoàn thành thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội” do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày, phân tích sâu sắc tình hình thế giới và nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong kháng chiến. Do cách mạng mỗi nước đã trưởng thành, nên ba nước Đông Dương, mỗi nước sẽ  thành lập Đảng riêng của mình. Đảng ta lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.

Kháng chiến thắng lợi, Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh trở về Hà Nội, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.

Tại Hội nghị Trung ương 10, khóa II (mở rộng) họp từ ngày 25-8-19567 đến ngày 5-10-1956, tại Hà Nội, Trường Chinh xin thôi chức Tổng Bí thư và được Trung ương đồng ý, với lý do chịu trách nhiệm trong việc chỉ đạo công tác phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất. Nhưng ông vẫn là Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Ban Bí thư của Trung ương Đảng.

Từ tháng 7 đến tháng 12-1986 (5 tháng), Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, thay Lê Duẩn vừa từ trần.

Tháng 12-1986, tại Đại hội VI của Đảng, vì tuổi cao, sức yếu, Trường Chinh xin rút lui khỏi các chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước và được Đại hội cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Trường Chinh có nhiều đóng góp vào sự nghiệp đổi mới, là một trong những tác giả của đổi mới, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng, cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, được dư luận xã hội đánh giá cao. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, ông không hề bảo thủ, giáo điều, rất sáng tạo và giữ vững nguyên tắc. Năm 1935, ông viết cuốn sách “Chống chủ nghĩa cải lương”, phê phán chủ nghĩa cải lương, giáo điều.

Trường Chinh từ trần đột ngột vào ngày 30-9-1988, tại Hà Nội, thọ 81 tuổi.

Con người Tổng Bí thư Trường Chinh là như thế đấy. Ông đã đi vào lịch sử Đảng và lịch sử dân tộc!

 ------

 1. Nguyễn Lương Bằng được bổ sung vào Thường vụ Trung ương thay Hoàng Văn Thụ bị nhà cầm quyền Pháp bắt và xử bắn.